Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Miền Bắc sau 1954 (Kết)

Miền Bắc sau 1954 (Kết) PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyễn Văn Lục DCVOnline   
Thứ Hai, 17 Tháng 11 Năm 2008 13:04

09-11-2008

Nạn nhân “bất đắc dĩ” của CCRĐ

Anh “Nhân” hay anh “Thận”, bí danh của Trường Chinh là người mông muội, sùng bái “Mặt trời Phương Đông”, đọc thuộc lòng tư tưởng Tri Cửu Chiến hay Tân Dân Chủ Luận của Tàu đến mê muội quá mức. Ông là người đã đứng ra phát động chiến dịch cải cách ruộng đất vào tháng 11, 1953 với phụ tá là Hồ Việt Thắng. Thắng là người được đưa sang Trung cộng học về Cải cách ruộng đất, học phương pháp đấu tố rồi về áp dụng ở Việt Nam. Họ chỉ biết học thuộc lòng, cưỡng hiếp oan uổng thực tế Việt Nam bằng bạo lực duy ý chí sao cho phù hợp với sách vở giáo điều. Trường Chinh trước sau cũng chỉ là con vật tế thần của Hồ Chí Minh. Do những sai lầm quá lớn của CCRĐ cũng như số nạn nhân bị giết trong cải cách đã dẫn đến việc Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí Thư trong kỳ Hội thứ 10 của ban chấp hành trung ương đảng Lao Động Việt Nam.

Hoàng Quốc Việt Lê Văn Lương bị loại ra khỏi bộ Chính Trị. Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban chấp hành Trung Ương.

Tội của bọn họ như thế mà chi bị mất chức thì kể là quá nhẹ.

(Từ phải) Hồ Chí Minh, Nguyễn Chí Thanh, Trường Chinh (học trò xuất sắc của Hồ Chí Minh), Phạm Văn Đồng tại Việt Bắc

Nguồn: Trích Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Trường Chinh của Ban Tư tưởng - Văn hóa TW

Một người không phải địa chủ, không ruộng nương, không bóc lột ai, nhưng trở thành nạn nhân cuối cùng của CCRĐ là một trí thức. Người dám đứng ra sửa sai đảng là luật sư Nguyễn Mạnh Tường trong bài Tham luận đọc tại Hội nghị Mặt Trận Trung Ương ngày 30/10/1956, tại Hà Nội. Bài chỉ đúng 4 trang rưỡi giấy ấy đòi phải đặt pháp lý hoá trong những vụ xử án. Kết quả ông đã không đòi được những điều ông không thể đòi: 40 năm còn lại, ông bị trù dập và “ngồi chơi xơi nước”. Ông bị trù ếm lâu nhất so với bất cứ loại địa chủ nào chỉ vì muốn đứng về phía lẽ phải, pháp luật. Ông chỉ quên một điều: Đảng vĩ đại nhất ngay cả trong những sai lầm của họ.

Người miền Nam có thể không biết, hoặc biết mà không nhớ là vào thời điểm 1955-56, bên bờ phía Nam của sông Bến Hải, chính quyên ông Diệm có căng một tấm biểu ngữ lớn ghi mấy câu cho người phía bên, phía Cửa Tùng, Vĩnh Linh đọc: Ở đâu con tố cha, vợ tố chồng?

Chính sách Hợp tác hoá nông nghiệp và những hậu quả của nó

Người nông dân như bần cố nông vừa mới được hưởng ân huệ 4 sào ruộng vì người cầy có ruộng thì nay nhà nước đưa ra chính sách Hợp tác hoá nông nghiệp. Việc sửa sai CCRĐ chưa xong, nhà nước đã ép nông dân đi vào đường tập thể hóa nông nghiệ theo đường hướng của Stalie và Mao Trạch Đông. Nông dân từ nay phải làm việc tập thể. Theo nguyên tắc: có làm mới có ăn, dưới sự lãnh đạo và theo kế hoạch của nhà nước. Nông dân sẽ bị tập thể hóa từ bậc th lên trên, từ xã lên toàn xã theo kiểu công xã nhân dân Trung Quốc.

95% diện tích đất đai từ nay trở thành của HTX, 5% còn lại để cho nông dân tự canh tác lấy.

Mãi cho đến năm 1986, HTX mới bị giải thể. Từ đó nông dân được tự do sản xuất trên ruộng đất của mình. Ngay đó năng xuất gạo tăng vọt đến có thể dư thừa, sau đó, xuất cảng gạo trên thị trường thế giới.

Từ nay, người dân phải làm đơn để hiến số ruộng mình có, hiến nông cụ, trâu bò của mình cho HTX. Sự bồi hoàn tính ra thành những phần hùn, những ngày công được giảm. Nhưng giả dụ có đi ra khỏi HTX thì không được quyền lấy lại.

Việc làm của xã viên được tính theo công điểm. Thóc của Hợp tác xã làm ra được quy định là nghĩa vụ lương thực đối với nhà nước.

Thực tế trước mặt

Tư lợi vẫn là yếu tố thúc đẩy một quá trình sản xuất. Khì không còn tư lợi, sản xuất sẽ bị trì trệ, ít còn trách nhiệm. Làm cho mình thì người ta có thể sẵn sang hy sinh công sức, ngày giờ, tiền Nhưng khôn ai dại gì bỏ công sức ra làm việc cho HTX, vì chẳng được thêm bổng ra ngoài. Người ấy nhất định nhảy xuống ruộng vá bò ruộng làm thoát nước. Nhưng nếu đấy là ruộng HTX thì người ấy có chịu lảm như vậy không? Chắc là không?

Điều đó cắt nghĩa được HTX tại sao ít năng xuất, tại sao thu hoạch kém, tại sao không bao giờ đạt được đúng chỉ tiêu? Và tại sao thất thu, tại sao cả nước vẫn chưa khá lên được?

Đất nước vẫn chưa ra khỏi cảnh nghèo túng, lạc hậu, vẫn chưa xoá được đói, giảm được nghèo suốt từ 1954 đến 1985.

Khi có nạn thiếu hụt lương thực thì người nông dân có thói quen dự trữ gạo cho họ. Một thứ Self-protection đồng thời họ còn hy vọng kiếm lợi nhuận qua số lúa gạo dự trữ thặng dư. Phần chính quyền mới, không tận thu được, chỉ thu đạt được 82.2% mục tiêu mà họ đề ra. Nhiều tỉnh còn tệ hơn nữa, chỉ thu được 60% như các tỉnh Kiến An, Quảng Bình, hoặc thu chưa được một nửa như các tỉnh Hải Phòng.

Chính quyền mới nghĩ đến việc ép dân vào các tổ hợp lao động (collective labour) với các Hợp Tác Xã mà mục tiêu nhằm tới là giới nông dân. Nhưng đã hẳn công việc hợp tác hóa đã không đạt được yêu cầu như mong đợi của chính quyền Cộng Sản. Trường Chinh chủ trương phải làm thế nào đưa được 70 đến 75% nông dân vào các Hợp tác xã, nhất là tầng lớp nông dân trung lưu. Theo như nhận xét của Ken Post như sau:

The last point strongly indicates that peasants were not settling easily in to the new organizations. This was bound to become worse as the officially estimated 30 percent of “ordinary” and “upper, middle” were enrolled. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam. Volume 2, Ken Post, trang 258).

Phần những người sống ở thành thị như công chức, bộ đội, công an, cán bộ, nhất là cấp cán bộ lãnh đạo cao cấp vốn không sản xuất ra lúa gạo thì cần tỗ chức sổ gạo, chế độ tem phiếu để có thể phân phối thực phẩm đến tay họ. Xã hội từ nay bị phân hóa ra nhiều thành phần, nhiều cấp bậc như thời phong kiến, măc dầu không còn có vua. Chênh lệch xã hội ngày càng lớn. Kẻ có vây cánh và thần thế chiếm giữ đặc quyền. Nhiều tầng lớp nhân dân bất mãn với chế độ như trong Ký 54-55 của Trần Dần đã ghi lại.

Chế độ sổ gạo và tem phiếu đã gây ra không biết bao nhiêu bất công, phiền nhiễu, mất thì giờ và cảnh khổ chờ đợi cũng như phẩm chất yếu kém của các món hàng do Hợp Tác Xã bán ra. Dân gian có thói quen gọi XHCN là Xếp hàng cả ngày chắc hẳn là đúng.

Tiêu chuẩn gạo cho quân đội là 18 kí lô/một tháng, người lớn là 13 kílô/tháng. Học sinh 14 ki lô/ tháng. Gạo như thế trở thành món ăn chính. Với số lượng gạo trên, ăn dè mới đủ. Nhiếu nhà, đến ngày 20 mỗi tháng là trong nhà không còn gạo mà ăn nữa. Tiêu chuẩn gạo phân phối như thế đối với một thiếu niên mới lớn thật không cách nào đủ được. Ai cũng phải ăn cả. Không lẽ quân đội thì được ăn nhiều và đầy đủ hơn một người dân thường?

Chưa kể là mua về phải gạo xấu, gạo mốc, gạo mọt, gạo xen cám, xen tấm, xen trấu. Mua về phải sàng lại, phải đãi lọc. Ai trách nhiệm về phẩm chất gạo đây? Kêu ai đây? Trong khi đó, muốn ăn gạo ngon thì cỡ nào cũng có, giá nào cũng có với điều kiện phải mua chợ đen.

Chưa kể là phải chen chúc, cãi cọ, phải chờ đợi, xếp hàng từ 3, 4 giờ sáng để khi cửa hàng mở thì được mua trước. Con cái, vợ chồng phải dạy sớm, thức đêm thức hôm, chầu chực.

Tình cảnh ấy, không thiếu người đã trải qua và cảm nhận được cái vô lý đến phẫn hận của đời sống trong Xã hội chủ nghĩa.

Xin dẫn một chứng từ của ông Nguyễn Đăng Mạnh:

“Ngày 30/04/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là những ngày rất vui. Tuy nhiên về đời sống vật chất thì vẫn khổ, có khi còn khổ hơn cả thời kỳ chiến tranh. Vẫn cơm độn mì hay bo bo. Vẫn xếp hàng chầu chực từ rất sớm để mua gạo mậu dịch. Mì để lâu bị mọt, sinh ra dòi bọ. Tôi đã thấy một lần như thế trong bát cơm của mình. Sợ quá… Làm gì cũng phải xếp hàng, phải chầu chực. Quyền thế nhất lúc bây giờ là bà chủ kho gạo, là cô hàng mậu dịch. Đây là lúc Hoàng Ngọc Hiến từng phát biểu một câu rất tội: Đi đường thấy một xu ai đánh rơi cũng phải nhặt. Kiếm đâu ra một xu bây giờ”.

(TríchHồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 55)

Gần đây nhất, tôi có trong tay tờ Công An, thành phố Hồ Chí Minh, bộ mới, số 164, số ra ngày 21/05/2005. ngay trang nhất, tờ báo cho in một câu: Hộ Khẩu. Chưa thể bỏ.

Đã nửa thế kỷ, người dân Việt Nam vẫn còn chịu cảnh sống dưới chế độ Hộ Khẩu.

Có lẽ nhà báo Bùi Tín là người hiểu rõ tất cả guồng máy chính trị cũng như những lắt léo, lạm dụng của cán bộ lãnh đạo cộng sản. Những tiết lộ sau đây của ông Bùi Tín là những tiết lộ “động trời” mà người dân thuờng không bao giờ biết được.

“Gạo cho các vị đã có cửa hàng gạo riêng ở đường Ngô Quyền, cùng đường với tòa nhà Bắc bộ phủ cũ cung cấp. Gạo ở đây là gạo hảo hạng. Thành ủy Hà Nội đã giao cho hai hợp tác xã ờ hai huyện Quốc Oai và huyện Từ Liêm dành riêng ra 100 hedta cấy lúa dự và tám thơm cho các “cụ”. Các thửa ruộng đặc biệt này được được chăm sóc và quản lý đặc biệt, cứ như ruộng để lấy gạo tế trời và để vua “ngự” thời trước vậy.

Các thửa ruộng ấy đều được giữ giống lúa thuần chủng, không xen lẫn với các thứ lúa khác, được chăm sóc đạc biệt, không dung thuốc trừ sâu”.

(Trích Mặt Thật, Thành Tín, trang 265)

Đời sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa là như thế. Người ta nói về nó quá nhiều rồi. Vậy mà nó vẫn tồn tại. Cho nên, muốn giữ cho xã hội khỏi bất mãn, khỏi nổi loạn, nhà nước đã xây dựng một bộ máy công an, một nhà nước chuyên chế và cứ thế, một chính quyền độc đoán đã hình thành. Cho mãi đến bây giờ, bộ máy chính quyền quan liêu phong kiến của chính quyền Hà Nội vẫn lội bì bõm trong ảo tưởng một thứ chủ nghĩa xã hội mà thực tế, họ chưa bao giờ thực hiện được lấy một lần. Đã hơn thế nửa thế kỷ trôi qua kể từ năm 1954, họ vẫn không ngừng hô to tiến lên, tiến lên chủ nghĩa xã hội bất kể bảng chỉ đường của thế giới nói chung tiến về đâu? Và hơn nữa, bất kể phần lớn các nước cộng sản đẵ khước từ nhãn hiệu thế giới đại đồng? Nhưng họ vẫn phải giả dối coi đó như một khúc quanh tạm thời và vẫn không ngừng đem chủ nghĩa Mác ra tuyên truyền và nay cộng thêm tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong thực tế, không một ai trong bọn họ, từ cấp Trung Ương đến địa phương hiểu được tư tưởng đó là tư tưởng gì?

Thay một lời kết

Trung Cộng đã đi trước chính quyền cộng sản miền Bắc trong vấn đề Cải Cách ruộng đất. Họ đã trả giá. Cộng sản VN máy móc, mù quáng làm theo và vẫn chưa một lời xin lỗi các nạn nhân trong vụ CCRĐ.

Cho đến nay, 750 chục triệu người nông dân ở bên Tầu: Ruộng vẫn chưa về tay người cày. Hiện nay, bài toán của Trung Cộng hiện nay vẫn là vấn đề: ĐẤT. Phải triệt để giải quyết theo công bằng và theo pháp lý để quyền lợi đất đai của người nông dân được bảo đảm. Bảo đảm theo nghĩa có quyền sở hữu được canh tác, được cho thuê và được phép bán.

Bài toán nan giải của Việt Nam bây giờ là giải quyết vấn đề đất đai cho người nông dân khỏi bị thiệt thòi và không còn có cảnh đi khiếu kkiện nữa.

Nhìn lại hơn 50 năm miền Bắc dưới chế độ cộng sản, người viết chỉ có thể thở dài và nghĩ mình còn may mắn – May mắn vì đã không phải sống dưới chế độ bạo tàn đó.

Vâng, phải nói là may mắn.