Tác giả Phạm Xuân Đài, thuộc dòng dõi Phạm Phú Thứ, trong một bài viết với tựa đề:" chùa là cái thiện" được phổ biến khá rộng trên hệ thống truyền thông hải ngoại; chùa là cái thiện cũng có phần đúng về hình thức trong triết lý Phật Giáo, vì cảnh chùa từ trong ra ngoài thường được trang trí cho có vẻ thanh tịnh và đượm phần thoát tục, phù hợp với những ai" coi cõi đời là cõi tạm" muốn tìm con đường giải thoát khỏi kiếp trầm luân khổ ải mà đời người thường hay TRÀN DÂNG nhân quả chốn TRẦN GIAN; chùa mà buồn, cô quạnh quá như " chùa Bà Đanh" cũng không hấp dẫn đối với những người có cái tâm" hàng hai" như đám đón gió trở cờ, vừa tự nhận là người tỵ nạn chính trị, nhưng cũng vừa muốn bắt tay với Việt Cộng để làm ăn, du lịch, du hý, du dâm.... đó là những người" bắt cá hai tay", vừa muốn tu thành chánh quả và cũng vừa muốn nhìn thấy cuộc đời đẹp lắm trước khi tìm đến cõi Niết Bàn.
Tuy nhiên ngày nay, có nhiều chùa không còn thiện nữa, như ngôi Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương, do" cư sĩ gốc công an" Dũng Lò Vôi xây dựng tại Bình Dương với diện tích hơn 500 mẩu tây, có cả những nơi" du hý" giống các tụ điểm du lịch nổi tiếng như Disney Land ở Mỹ; nổi bật là nơi chánh điện có thờ tượng vàng của đại giáo chủ ma đầu" vô thần" kiêm" quỷ vương" Hồ Chí Minh chung với đức Phật và vua Hùng ( có công dựng nước); chùa Quán Sứ ở Hà Nội là nơi mà Phật Tử tìm đến nơi thờ Phật, cúng bái, công quả, công đức và đủ thứ" công khác" cũng phải" tịnh khẩu" nếu lỡ lời là bị" sư, tăng ni mắt khóm tai bèo" báo cáo với các" đồng chí công an" về tư tưởng tiêu cực, phản động, có âm mưu lật đổ chế độ, thì con đường cải tạo chập chờ trước mắt, trong khi chưa thấy Niết Bàn đâu; nhưng cái hệ thống nhà tù cải tạo cũng là cửa ngỏ đưa vào" thiên đàng Cộng Sản" đấy.
Chùa là cái thiện cũng ở Việt Nam ngày nay, như ở Thanh Minh Thiền Viện hay các tự viện không nằm trong cái giáo hội Phật Giáo với công thức:" chùa do Phật tử vung bồi công quả, công an giả sư quản lý, đảng Cộng Sản vô thần lãnh đạo". Những tự viện nằm ngoài vòng cương tỏa của Mặt Trận Tổ Quốc, nơi mà các vị cao tăng, tu sĩ muốn thanh tịnh, được tự do tu hành theo truyền thống Phật Giáo đã có từ hàng ngàn năm qua, nhưng cũng không được, vì chùa luôn luôn đặt trong cái" tình huống" cực kỳ khẩn trương, kiểm soát ra vào, ngay cả con kiến, con rận, rệp và loài có cánh như con ong chúa 63 cũng hổng thể nào lọt vô được, ngoại trừ con mối chúa là có thể" độn thổ" chui vào thôi:
" Người hiền đức như tù trong khám. Có công an bao bọc bên ngoài".
Chùa chỉ là nơi thờ Phật và người đi tu có nơi nương tựa, được coi là những người quy y, tình nguyện suốt đời làm con của Phật, nên ai đi tu cũng mang họ Thích. Không phải ai họ Thích cũng đều Thích tu hành đâu, cái tâm mới là quan trọng:
" Dò sông dò biển dễ dò. Nào ai lấy thướt mà đo lòng người".
Đại thi hào Nguyễn Du cũng đồng ý:
" Thiện căn bởi tại lòng ta. chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".
Chùa với thầy chùa, nhưng không phải thầy chùa nào cũng" đạo hạnh cao dầy", để hết tâm trí tu hành, chắc chắn khi" viên tịch" cũng phải lên Niết Bàn, đứng ngồi gần tòa sen. Nên người đời có danh hiệu " Thầy chùa lửa, sư hổ mang, ác tăng"....ngày nay thêm" dâm tăng" sau khi" phát hiện" ra một số tăng có nhiều hạ lạp, lên đến Huề thượng đã từng biết thế nào là:" con đường tình ta đi", vừa tu vừa tìm cách hưởng cái lạc thú thế gian để" thanh tâm trường khóa lạc", đạt cả hai mặt" đạo và đời", biến" đời là bể khổ" thành" đòi là bể sướng". Như thượng tọa Thích Trí Quang, dù là người tu hành lâu năm, kỵ sát sanh hại vật, nhưng vào thời trung tướng Nguyễn Khánh làm quốc trưởng, sư nầy dùng áp lực với khối Phật Giáo sau lưng mà buộc tướng Khánh phải" giết" ông Ngô Đình Cẩn, đứa em út của tổng thống Ngô Đình Diệm, hành vi nầy cũng như Việt Cộng hay bất cứ kẻ bất lương nào, thế mà có người chấp tay vái lạy, tôn kính hơn cả cha mẹ. Tu khó lắm, nên Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, vị sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo có câu:" Thứ nhứt là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thư ba tu chùa" và để khuyến tu, Ngài có câu:
" Tu không cần lạy cần quỳ. Ngồi đâu sửa đó, vậy thì mới nên".
Chùa, ở chùa, mặc áo cà sa, cạo đầu, ăn cơm bá tánh, biết đọc kinh cầu siêu, tứ thời, thuyết pháp và cũng biết cách làm Business qua dịch vụ tụng kinh cho các đám tang để cầu nguyện cho các Phật tử quá cố được" lên Niết Bàn" với số tiền" chặt đẹp" ( Charge- đẹp), và thân nhân người chết cũng phải" tiêu diêu nơi miền hãng xưởng" để có đủ tiền trả cho sư tụng kinh, làm tiền rất nhẹ nhàng và sáng tạo nhờ những kinh sách của đạo Phật. Những người THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI cũng chưa chắc gì là người tu. Vì ở mọi thời đại, đều có những kẻ" mượn đạo tạo đời". Do người đời còn quá nhiều tội lổi, đam mê, mà trong những đứa con Phật, có thứ tu sĩ THÍCH ĐỦ THỨ và tệ hơn là công an giả dạng là tu sĩ THÍCH VIỆT CỘNG, từng gây bao hệ lụy cho uy danh đức Phật và đạo Phật mà vẫn" an nhiên tự tại" trong cái" thanh tâm trường an lạc", chỉ bị tiếng đời dị nghị và sau đó, thời gian là thuốc xóa sạch những điều xấu xa; trong khi đó bên Công Giáo, các linh mục lạm dụng tình dục thì bị giáo dân, nạn nhân truy tố, thưa kiện và chính đức giáo Hoàng cũng phải xin lổi, giáo hội phải bồi thường. Nhưng với những tu sĩ Phật Giáo, lén lúc quan hệ tình dục, có cả" nghiệp báo" là có con đùm đề, làm nhiều chuyện trái với đạo lý, phạm giới...có ai đưa ra tòa đòi bồi thường, sư vẫn" thoải mái hành đạo" tiếp tục lừa đảo thế gian, Phật Tử cho đến mãn phần được gọi là" viên tịch" và các chùa khác, đệ tử đọc kinh cầu siêu, ghi công đức" cao dày", nên trong bài ca Tôn Tẩn Giả Điên, Út Trà Ôn ca rằng:" biết đâu những kẻ lừa thầy phản bạn, thường hay giả dạng kẻ nhân từ".
Luật Nhân-Quả và Luân-Hồi của Phật Giáo rất thâm sâu, uyển chuyển, nếu áp dụng đúng thì là cách răng đời" làm lánh lánh dữ" như quyển" Hồi Dương Nhân Quả". Tuy nhiên, ở đời nầy có nhiều kẻ áp dụng và giải thích lệch lạc nên sinh ra nhiều nghiệp báo, hệ lụy:
-Nhiều người sanh lòng bỏ vợ già thì cho là" duyên nợ đã hết", và về Việt Nam bảo lãnh vợ nhí, đáng tuổi con cháu mình thì cho là:" kiếp trước có nợ duyên", mình không thương người ta thì:" mang tội với Trời Phật". Có kẻ lấy vợ nhỏ mà vẫn" an nhiên tự tại" bảo với vợ là " do ông trời đặt để", nếu vợ là người Phật tử thuần thành, cũng đành chấp nhận cái luật nhân quả, luân hồi, không phản ứng, ly dị, chia của, dù trong lòng tức tối, phải chịu đựng để" trả quả" cho kiếp trước.
-Các sư cũng áp dụng luật nầy để thoải mái"quan hệ tình dục" với người khác phái, lòng vẫn" thanh tâm trường an lạc" cho là: kiếp trước có duyên nợ, có vay nợ với nhau, cho nên người phụ nữ có quan hệ với" sư" cũng đành chấp nhận nếu có" con" với nhau. Để bảo vệ cái căn quả nầy, người phụ nữ cũng phải ráng chịu" nuôi con" để trả quả do kiếp trước có vay mượn với nhau. Thế là các phụ nữ nín thinh, không lên tiếng tố cáo với cảnh sát ( kể cả bị xâm phạm tình dục), nên các sư Phật Giáo thường được an toàn cho đến khi" viên tịch", rồi sau đó mới lòi ra" thẩy chùa con" là coi như" trả quả" cho kiếp trước.
Trước năm 1975 ở miền Nam, lợi dụng thể chế chính trị tự do, quỷ đỏ Cộng Sản xâm nhập và cửa chùa, là cứ địa an toàn, dễ nhất; lý do là ai muốn đi tu, chỉ cạo đầu, mặc áo cà sa là được danh hiệu" THẦY", dù người đó ít học, dốt, cũng được các Phật Tử có bằng cấp cao, bác sĩ, kỷ sư, giáo sư, tiến sĩ....phải chấp tay cung kính là" Thầy" mà không cần đắn đo.
Ngay cả những ông tướng trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, đi đâu cũng có quân cảnh hộ tống, trước phòng làm việc có lính gác, thế mà vẫn cung kính với các thầy; thế nên thời đó có câu tục ngữ:" NHẤT ĐĨ, NHÌ SƯ, TAM CHA, TỨ TƯỚNG". Đó là cái tập quán" trọng Phật kính tăng" một cách máy móc, nên Cộng Sản dễ lợi dụng, hoạt động từ khi miền Nam chưa mất cho đến nay. Điển hình là vụ biến động Phật Giáo miền Trung 1966 do thượng tọa Thích Trí Quang cùng với một số tên Việt Cộng nằm vùng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ngọc kha, Võ Đắc Xuân... phát động; nhờ các tướng Phật Tử như trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lịnh quân đoàn 1, chuẩn tướng Nguyễn Xuân Nhuận, tư lịnh sư đoàn 1" kính tăng" và nghe lời tăng hơn cả cấp trên của mình..
Chùa là cái thiện về hình thức, nhưng người trong chùa không thiện, huề thượng Thích Tâm Châu ghi lại trong quyển Bạch Thu phát hành ngày 1 tháng 1 năm 1994 tại chùa Phật Quang, Úc Châu: vào tháng 7 năm 1966, sau chuyến đi từ Tích Lan, Mã Lai, Singapore trở về Saigon, đến Việt Nam Quốc Tự, vừa bước chân vào văn phòng Việu Hóa Đạo thì thấy biểu ngữ nền vàng chữ đỏ căng với hàng chữ:" Muốn quần chúng tuân theo kỷ luật thì phải tuân theo quần chúng". Bước chân vào bàn làm việc, nơi nầy đã có sẵn một chén máu và con dao với tấm giấy đe dọa:" yêu cầu các thượng tọa trong Viện Hóa Đạo không được theo thượng tọa Tâm Châu" (* phần ghi chú về cái chết của Thích Quảng Đức ở cuối bài). Sau 1975 thì chùa càng ít thiện hơn khi đảng Cộng Sản gom thành phần tu sĩ gốc đảng, tu giả, tu trốn lính, vào năm 1981 thành cái giáo hội Phật Giáo Việt Nam, bản doanh là chùa Quán Sứ, Hà Nội với huề thượng Thích Trí Thủ, nghe đâu, vị nầy đã" đắc quả là triệu phú" với số tiền lên đến 250 triệu Mỹ kim.
Từ đó cái ác lan tràn, khống chế các vị tu sĩ chân chính trong giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do huề thượng Huyền Quang, Quảng Độ lãnh đạo. Vụ án Già Lam cũng là" khổ nhục kế" tinh vi, được dàn dựng khá công phu, một thời làm chấn động lương tri, do bọn ma quái" Cộng Sản" dựng lên để đưa những" con quỷ dữ" vào phá giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước; được biết cái vụ án Già Lam làm chấn động trong nước và thế giới, nhất là tại các cộng đồng người Việt tỵ nạn, lúc đó người ta lầm tưởng là các tu sĩ Tuệ Sĩ, Trí Siêu...là những người chân chính, dám can đảm đứng lên chống lại đảng Cộng Sản vô thần để bảo vệ đạo pháp. Tuy nhiên, hai ông nầy đã" báo trước" mà nhiều người không hay, lúc kêu án tử hình, thì Tuệ Sĩ cười và vói với Trí Siêu:" mình không chết đâu thầy ơi!". Có một số người tin là Tuệ Sĩ giỏi về khoa tử vi nên quả quyết như vậy. Thế là ở hải ngoại, các cơ quan truyền thông, tha hồ mà đánh bóng và những đảng phái, tổ chức tích cực vận động...rồi Việt Cộng phải nhượng bộ tha ( SIC), nếu không ai vận động thì Việt Cộng cũng đâu giết những" con gà của họ", kế nầy thật nhịp nhàng và có bài bản. Nhờ thế mà Trí Siêu, Tuệ Sĩ trở thành" biễu tượng đấu tranh" là tù nhân lương tâm, nhất là tay Thích Trí Siêu là người ngạo mạn, với cái gọi là" Giấc Mơ Trường Sơn", hắn còn lếu láo:" ai không biết chữ Hán, không phải là người Việt Nam", bị công tử Hà Đông vạch mặt vào thời đó, nên không ai lưu ý, cũng dám có người bực bội vì dám phê phán cả thần tượng của họ.
Chùa không còn là cái thiện khi mà công an, cán bộ đảng vô thần xâm nhập đánh phá, trong nước thì chùa biến thành nơi" quan trường" ai muốn tu phải có giấy phép, tu sĩ muốn có chỗ tu" tốt" cũng phải lo tiền, những người có quan hệ với đảng, công an, cán bộ được ưu tiên tụ hành ở những ngôi chùa lớn, còn không phải là" đỉnh cao trí tệ tăng ni" thì bị bức hại, đuổi đi, tù đài. Ngày nay quí thầy dùng bia, rượu thay trà, ăn thịt ca thay đồ chay và cũng trở thành tông phái TU ÔM theo Thiền TIẾP HIỆN của sư ông, sáng lập THÍCH NHẤT VẸM, nên tu sĩ biến" cõi đời thành cõi sướng". Hải ngoại, thì những tu sĩ thuộc Mặt Trận Tổ Quốc mới được xuất ngoại làm công tác tông giáo vận từ hàng chục năm qua như Thích Thanh Từ, Thích Thông Kinh...và gần đây là" trí thức Phật Giáo" đại đức, tiến sĩ Thích Nhật Từ. Hắn tên thật là Trần Ngọc Thảo, sinh ngày 1 tháng 4 năm 1969 tại Saigon, cha là cán bộ Cộng Sản, biên chế sang Mặt Trận Tổ Quốc, năm mới 23 tuổi nà đã tu hành tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trở thành " sư trụ trì chùa quốc doanh" hiệu là chùa GIÁC NGỘ, số 92 đường Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10 thành Hồ. Hắn xâm nhập vào đất Mỹ từ lâu qua" con đường chùa ta đi" do một số Phật tử" tỵ nạn quốc gia, rước ma sư Cộng Sản", chứ không phải mới đây.
Dựa vào" phương án" dịch Kinh Đại Tạng," tên Thích Nhật Từ cung thỉnh hai tên" Tuệ Sĩ và Trí Siêu làm " chủ trì", từ đó ở hải ngoại có một tổ chức mang tên:" Hổ Trợ Dịch Đại Tạng Kinh" được một tu sĩ tên là Thích Nguyên Siêu, trụ trì chùa Phật Đà ở San Diego ( nam Cali), cùng với cư sĩ Huỳnh Tấn Lê ( Tổng Hội Cư Sĩ Orange County) về tài chánh và hai vị" chán tu" bỏ chùa hoàn tục khác có pháp danh là Nguyên Lương và Đức Hạnh; tổ chức nầy gây quỷ liên tục suốt 3 năm nên bè nhóm Tuệ Sĩ, Trí Siêu, Nhật Từ tha hồ mà tiêu pha" tiền chùa" được quyên góp từ mồ hôi của các Phật Tử" thuần thành" đóng góp. Kinh Phật, nhất là kinh Đại Tạng rất nhiều bộ, nhưng người ta tự hỏi:" dịch kinh để làm gì?" với công trình ròng rả cả hàng chục năm, có khi phải dịch cả đời mà vẫn không xong, hao tốn công, tiền; mặt khác, liệu các tay dịch thuật nầy có đủ trình độ để hiểu và dịch đúng theo tinh thần của tác giả các" đại tạng kinh" không?...với hàng chục ngàn trang giấy dịch bí hiểm văn tự; dịch kinh chỉ để trong kệ" tàng kinh các" cho bụi đóng và thỉnh thoảng lau chùi, làm cảnh, chứ Phật Tử ít khi nào đọc; họa hoằng lắm, mới có vài vị" thâm kinh" tới tìm vài câu để viết sách cho mình, hay tra cứu vài tài liệu. Tuy nhiên cái hiện tượng các sư muốn" phô trương" cái sở học uyên thâm" Hán, Phạn" với các học vị" tiến sĩ" tốt nghiệp ở Ấn Độ, Nhật Bản, nên mới bài ra trò" dịch kinh" để lòe thiên hạ mà thôi. Thật ra muốn áp dụng tư tưởng Phật, chỉ cần đọc và hiểu rõ quyển Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân là tạm đủ trong" đại hùng, đại lực, đại từ bi" hầu đối phó với ma quái, xử thế, tu học, chớ cần chi những bộ Tạng Kinh nầy. Con nít ngày nay chỉ cần mua DVD bộ phim nầy cũng thấm nhuần triết lý Phật Giáo:
" Phô trương bằng cấp, dịch Tạng Kinh. Chứng tỏ ta đây, chữ đầy mình. Ngàn năm lưu trữ, pho sách quí. Vạn trang khai mở trí thông minh. Sư qua Ấn Độ làu tiếng Phạn. Thầy thuần Hán học, rộng tầm nhìn. Hao tiền, lại bỏ nhiều công sức. Có ích lợi gì cho chúng sinh?"
Tên sư Việt Cộng Thích Nhật Từ kết thân với sư Thích Chân Thành, trụ trì chùa Liên Hoa, đường Bixby, Garden Grove ( Nam Cali) nhân chuyến sư nầy hành hương ở Ấn Độ, từ đó móc nối, nên sư Chân Thành trở thành người ủng hộ đắc lực cho tên" sư công an Tôn Giáo là Thích Nhật Từ" từ dạo ấy. Từ năm 2004 Sư Chân Thành lợi dụng cơ sở tôn giáo để bảo lãnh Thích Nhật Từ đến Hoa Kỳ lần đầu, cư ngụ tại chùa Liên Hoa và sau đó được giới thiệu với sư Chơn Lễ tại Texas nhằm thuyết pháp và cư ngụ, gây uy thế để mở rộng tầm hoạt động tôn giáo vận trên đất Mỹ qua cửa Phật. Nhắc lại lúc cụ Nghiêm Xuân Hồng còn sống, nhóm Liên Hoa không mời Thích Nhật Từ thuyết pháp; nhưng sau khi cụ Hồng qua đời, cựu trung tá pháo binh quân đoàn 2 thuộc quân lực VNCH, pháp danh là Mật Nghiêm, tục danh Đăng Nguyên Phả, với tư cách hướng dẫn đạo tràng, tiếp tay với sư Chân Thành tổ chức thuyết pháp hàng tuần. Sau nầy chính trung tá Phả hợp lực cùng với Huỳnh Tấn Lê thành lập nhóm Phật Học lấy tên là Đuốc Tuệ, chuyên dành cho Thích Nhật Từ thuyết pháp tại trường Mc Gavin, đường Bishop, gần khu Phước Lộc Thọ một cách công khai; các buổi" hoằng pháp chất lượng cao" nầy được phát thanh trên đài Tiếng Nói Hương Sen, ngoài ta còn ấn hành cả CD, DVD do Thích Nhật Từ thuyết pháp, phát không cho Phật tử nhằm tuyên truyền và tạo thế đứng của hắn tại Hoa Kỳ. ( tài liệu trên Nam Úc Tuần Báo, số 658, phát hành 22-8-2008).
Đây là một vài thí dụ điển hình về con đường xâm nhập an toàn của Cộng Sản qua cửa ngỏ Phật Giáo, với" cửa chùa rộng mở" thu nhận cả ma quái vào; chính nhờ những Phật Tử thuần thành, không phân biệt chánh tà, thấy ai mặc áo cà sa, nói năng như phật" nhưng không phải Phật", nhất là sư nào có bằng TIẾN SĨ PHẬT GIÁO tốt nghiệp từ Ấn Độ ( nơi Đức Phật sinh ra) thì là cao siêu, là lời nói rất" chất lượng" để giúp mình giác ngộ sớm, về bến giác mau. Trọng Phật là đương nhiên, nhưng" kính tăng" thì nên coi lại, hảy cẩn thận:" đừng nghe những gì thầy chùa thuyết pháp, mà hảy nhìn kỷ những gì thầy chùa làm". Cái gương của Tam Tạng trong Tây Du Ký, nhiều lần quỳ lạy ma quái giả Phật, xuýt bị xơi tái; cũng có nhiều lần Tam Tạng mù quáng, không nghe lời Tôn Hành Giả, trái lại còn niệm chú xiết vòng kim cô không phân biệt chánh tà.
Nhờ có quá nhiều Tam Tạng thời đại, nên Việt Cộng mới xâm nhập vào chùa an toàn từ thời trước 1975 ở miền Nam, nay lan ra hải ngoại, bài học cũ, thế mà nhiều người vẫn chưa thấm, cứ nhắm mắt đi theo" sư Việt Cộng dẫn Phật Tử mù quáng, đi theo tấm bản chỉ đường của đảng" qua các" tên công an mặc áo cà sa". Một tập quán khác cũng rất nguy hiểm là: Phật tử có lối suy tư" mặc kệ nó", tức là:" ai làm bậy thì có trời Phật biết", mình không làm điều sai là không sợ; nên mình đi chùa để lạy Phật, cúng dường, dù biết chùa là của Việt Cộng lãnh đạo bên trong, sư là công an trá hình.... đó là những nguyên do tạo điều kiện cho các sư xấu, kể cả công an đội lớp tu sĩ có nơi hoạt động, nuôi dưỡng ma quái mà tưởng là làm việc thiện.
Trong nước Phật Giáo đã bị cơn đại pháp nạn, khốn đốn hàng mấy thập niên qua kể từ khi có mặt đảng Cộng Sản vô thần do tên đại quốc tặc Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ở hải ngoại, bàn tay quỷ đỏ đang vương ra, núp bóng Phật Đà, lợi dụng Phật tử, phát triển rộng khắp nơi, nên hiện tượng CHÙA MỌC LÊN NHƯ NẮM ở các cộng đồng tỵ nạn, con số chùa của người Việt tỵ nạn lên đến con số hơn 300, nghe qua chóng mặt và ngày nay đang có thêm nhiều ngôi chùa mới nữa, với sư mới, trẻ măng, nói nang dịu dàng, toàn là lời trong kinh, hàng tuần hay tổ chức nấu ăn đồ chay miễn phí để chiêu dụ, chùa giàu có cả xe bus để chở những người già, bịnh tật không lái xe đến chùa, ràng buộc hụi hè, giúp đỡ những Phật tử nào có vốn muốn về Việt Nam kinh doanh qua các sư từ trong nước quen biết với chính quyền, thỉnh thoảng mời sư ở Việt Nam sang thuyết pháp và" hoằng hóa" chúng sanh, chùa cũng có thể là nơi" chuyển tiền" về Việt Nam với huê hồng thật rẻ, là nơi giới thiệu hôn nhân" thiệt-giả", móc nối đủ thứ; có thể nói là; cửa chùa ngày nay sinh hoạt" đa hệ" chớ không thuần túy chi tu học, giải thoát; một số Phật tử còn có tấm lòng từ bi, bảo trợ một số sư từ Việt Nam sang, trở thành tam cùng" cùng ăn, cùng ở, cùng tu"; nhưng sư nào đi xuất ngoại dễ dàng là điều ai cũng nhìn thấy, khỏi cần dùng kiếng chiếu yêu, hay là có trình độ văn hóa cao mới nhận biết.
Việt Cộng vẫn dùng cửa thiền môn xâm nhập, nên các sư nào xuất ngoại như đi chợ, được đi dân sang các nước để" tu học" đều là người của Việt Cộng cả, là thứ" công an, gián điệp tôn giáo" rất nguy hiểm. Việt Cộng thất bại nhiều mặt trận hải ngoại: trí vận, kiều vận, kinh tài vận....nhất là cái nghị quyết 36 càng lộ mặt nhiều cơ sở nằm vùng, do đó mặt trận tôn giáo, được cơi là cửa ngỏ an toàn xâm nhập và đánh phá qua vụ Hồng y Phạm Minh Mẫn, đại đức Thích Nhật Từ. Do đó, con đường xâm nhập từ chùa là an toàn, nên có thể là Việt Cộng dùng hình thức RỬA TIỀN bằng cách lập ra nhiều ngôi chùa, dùng một số Phật Tử địa phương làm cơ sở để che mắt; khi cất chùa xong là lấy tư cách để bảo lãnh sư từ Việt Nam sang qua diện tôn giáo, các tu sĩ tạm thời" núp bóng từ bi" để hoạt động, học hành, sau khi lấy bằng tiến sĩ, KỶ SƯ thì để tóc dài và trở thành CƯ SĨ, âm thầm biến mất trong dân chúng, cứ thế mà phát huy, tăng nhân số, hoạt động cho đảng, sau cùng là con số nằm vùng gia tăng, hợp với du học sinh, khuynh tả, có làm ăn với Việt Nam vận động" hòa hợp hòa giải", công khai treo cờ đỏ khi họ đông dân, lập ra cộng đồng mới với các Phật tử mù quáng yểm trợ, mở rộng các tổ chức từ thiện với nhiều mục đích: giúp dân nghèo trong nước, sửa chửa chùa, xây chùa....
Hiện tượng chùa mọc" không người lái" tại nhiều nơi ở hải ngoại là điều cần cảnh báo, nếu không thì bài học cũ trước 1975 ở miền Nam được lập lại. Cho nên, trước mắt là Phật tử nên cẩn trọng, nhất là các sư ở Việt Nam sang dễ dàng, chiếc áo không thành nhà tu là thế. Để đối phó, khi nhìn thấy chùa có những điểm khả nghi như có nhiều sư ở Việt Nam sang thuyết pháp, sinh hoạt...thì tránh đi chùa đó, kế đến báo với sở thuế để họ xem xét những món tiền lớn ở đâu mà có để mua đất, xây chùa hàng triệu đồng....nên nhớ là luật thuế vụ các nước dân chủ rất minh bạch, bất cứ ai đi làm cũng khai thuế và đóng thuế; ngay cả các cơ sở cộng đồng người Việt Tự Do ở Úc Châu, dù được chính phủ tài trợ hàng năm, nhưng vẫn phải khai thuế. Chùa cũng là cơ sở thu-nhập tiền, có quan hệ đến nhiều người, thì cũng phải đóng thuế mới công bằng; hy vọng sở thuế các nước dân chủ sẽ tìm ra được những" triệu phú đầu trọc" ở hải ngoại, là những người" tu nhất kiếp giàu nhất thời", không làm mà giàu xụ, kể cả những số tiền bất chánh từ đảng và nhà nước muốn dùng chùa để đầu tư và rửa tiền. Khi sở thuế khám phá ra những điều bất thường về tài chánh, với số tiền lớn xây chùa, tức nhiên là chính phủ sẽ mở cuộc điều tra về nguồn gốc số tiền ấy, có khả năng tìm ra được" bọn gián điệp" rửa tiền bằng cách lập ra các chùa và từ đó tạo thành cơ sở an toàn, hoạt động có lợi cho đảng và nhà nước Việt Cộng.
Người Việt tỵ nạn chân chính nào cũng không ưa bọn công an, cán ngố...ngay từ trong nước. Tuy nhiên đã bỏ nước ra đi, mà vẫn chấp tay" vái chào cung kính" công an, cán bộ tôn giáo vận mặc áo cà sa, thì quả là chuyện nghịch lý. Chẳng lẽ tượng của tên quốc tặc Hồ Chí Minh được Dũng Lò Vôi khoát áo cà sa, hay ngồi chung với Phật, Hùng Vương, thì người Phật tử thuần thành cũng quỳ lạy hay sao?./.
(*) Ghi Chú:
Vụ tu sĩ Phật Giáo Thích Quảng Đức tự thiêu vào ngày 11 tháng 6 năm 1963 tại ngả tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt vẫn còn nhiều nghi vấn. Chính cái vụ tự thiêu nầy, làm cho Phật Tử càng ghét chính phủ Ngô Đình Diệm thêm, nên 5 tháng sau thì trung tướng Dương Văn Minhhợp với tướng Phật giáo Đổ Mậu, mới gom các tướng tá đón gió đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, giết tổng thống và bào đệ Ngô Đình Nhu.
Vụ Thích Quảng Đức tự thiêu được báo chí miền Nam ca tụng là" trái tim bất diệt" vì toàn thân xác thành tro, chỉ còn trái tim và được giới tu sĩ coi là đắc quả, ngày nay có một số ngôi chùa lấy pháp danh vị sư tự thiêu. Người Viết tình cờ được biết một số chi tiết trong vụ nầy, xin được nêu lên với tinh thần đóng góp, không có ý đã phá tôn giáo, nhằm tìm ra sự thật. Số là năm 1977 bị giải từ trại tù Khám Lớn Bạc Liêu lên trại tù quân khu 9 là Chi Lăng, ở liên đội 3, thuộc Liên Trại 3, ở nhà số 4. Kế bên là nhà số 2, gồm một số sĩ quan cấp đại úy, trong đó có đại úy LÊ VĂN LÂM, là sĩ quan tuyên úy Phật Giáo sư đoàn Dù, nên chúng tôi gọi là" Thầy Chùa Lâm". Trong một lần hợp tổ, anh Lâm có nói về vụ Thích Quảng Đức tự thiêu, được một số anh em bên nhà 2 kể, sau đó tôi có hỏi khi anh Trịnh Tiến Bình (đại úy ở cùng nhà với anh Lâm), sau đó tôi có gặp thầy chùa Lâm, được xác nhận là sự thật, xin được nêu lên như sau:
Tụ thiêu là do bốc thăm, chớ không phải tình nguyện, người trúng thăm tự thiêu là thượng tọa Thích Nhật Thường ( tục danh là Lê Văn Sua), là thân phụ của đại úy Lê Văn Lâm. Nhưng ông Lê Văn Sua nầy có vợ, cái đêm cuối cùng, nghe lời vợ, trốn khỏi chùa, sáng hôm sau, tới giờ" hành động", không tìm đâu ra người tự thiêu, nên Thích Quảng Đức là người hy sinh. Không rõ là do tình nguyện hay là trong ban tổ chức dùng thuốc mê cho uống và bắt ra đốt? Vì thời đó khối Phật Giáo Ấn Quang có Việt Cộng nằm bên trong, hù dọa cả thượng tọa Thích Tâm Châu bằng chén máu, con dao trên bàn làm việc, thì mới biết tình hình đàng sau chánh điện tệ hại như thế nào... đó là câu nghi vấn cần được giải tỏa. Có thể Thích Quảng Đức bị chết oan do những người Cộng Sản gây ra trong chùa, nên sự oan ức nầy khiến trái tim không cháy? Xin được đưa ra cho rộng đường dư luận, vì nghe viết chỉ nghe từ một tu sĩ Phật Giáo.
|