Thực Trạng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo miền Bắc từ 1945-1975 (I) |
Tác Giả: Nguyễn Văn Lục | |||||||||||||
Thứ Ba, 24 Tháng 2 Năm 2009 22:03 | |||||||||||||
Nhân dịp có phái đoàn Ngoại Giao Tòa Thánh Vatican do Đức ông Pietro Parolin, thứ trưởng ngoại giao sang Việt Nam từ ngày 16 đến 21/02/2009. Bài viết này nhắc lại một quá khứ đen tối của giáo hội miền Bắc trước đây để nhìn rõ thực trạng ngày hôm nay và để thấy rằng còn rất nhiều việc phải làm, nhiều điều phải đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản hiện nay đối với các tôn giáo. Việc thăm viếng với tư cách phái đoàn ngoại giao cho thấy sự tiến tới việc thiết lập bang giao giữa hai bên là điều cần thiết và bình thường. Điều đã nên làm từ lâu để tránh những mối bất đồng mà chính ra là không bất đồng đối với hằng trăm các nước khác. Người ta phải tự hỏi, tại sao tòa thánh Vatican không gặp khó khăn và bất đồng như thế đối với các nước như Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Đại Hàn? Nói chi đến các nước Âu Châu và ngay cả Phi Châu. Câu trả lời là chỉ vì các nước ấy không phải là cộng sản như Việt Nam, Tàu. Cái bất đồng lớn nhất như cục bướu ung thư là chính quyền cộng sản muốn nắm đầu, muốn can thiệp, muốn kiểm soát tôn giáo, muốn một thứ “tôn giáo nhà nước”, muốn “tôn giáo quốc doanh” với sư quốc doanh, linh mục quốc doanh, nhà tu quốc doanh. Cái mà ông Nguyễn Quốc Cường gọi là “Chính sách tôn giáo trước sau như một” của nhà nước cộng sản. Cứ nhìn thực trạng tôn giáo quốc doanh ở Việt Nam bây giờ thì tương lai tôn giáo sẽ đi về đâu? Cho dù có những bất đồng lớn như thế trong quá khứ cũng như hiện tại thì đây cũng là lúc nên giải quyết bằng những phương tiện chính thức như ngoại giao? Vatican có đòi hỏi những gì “hơn”, “quá trớn” so với các nước khác không? Chắc là không và trái lại đằng khác. Ngược lại các tôn giáo ở Việt Nam đều là nạn nhân của chế độ cộng sản. Chẳng hạn quyền in ấn các tác phẩm tôn giáo, quyền đào tạo tu sĩ và nhất là quyền được chỉ định, tuyển bổ các chức sắc trong giáo hội. Chính quyền cs cứ khăng khăng là phải để họ duyệt xét trước đã. Nhưng căn cứ vào nguyên tắc gì để chính quyền có thể đánh giá một giám mục là tốt hay không tốt? Tốt với chính quyền có tương đồng với cái tốt của Giáo hội? Trong khi đó chỉ là chuyện nội bộ các tôn giáo mà các chính quyền không nên can thiệp vào. Đó là thứ quyền tự do hành giáo và truyền giáo. Đó là thứ quyền không có không được. Việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao cũng là cơ hội mở ra để “điều chỉnh” cũng như “xét lại” những đòi hỏi thiết thực để cho một giáo hội có thể hoạt động hữu hiệu hơn giúp ích cho tôn giáo mà còn cho xã hội nói chung. Cả hai bên phải đi đến những thỏa thuận để giải quyết rất nhiều vấn đề tồn tại từ 1945 đến nay. Tình trạng đó không nên kéo dài mãi, gây mối căng thẳng và nghi ngờ đáng nhẽ không nên có. Tất cả tùy thuộc vào thái độ hiểu biết của nhà nước. Bởi vì tiến trình “giải băng giá” giữa chính quyền và tôn giáo xét cho cùng phải bắt đầu từ chính quyền và kết thúc cũng là do chính quyền. Bởi vì tôn giáo nào cũng chỉ muốn được an thân để hành giáo mà thôi. Cho nên mở ra hay khép lại trước sau tùy thuộc chính quyền cộng sản mà thôi. Cái câu hỏi vẫn không có câu trả lời là tại sao ở xứ người, không có những xung đột tôn giáo, không có những hạn chế, cấm đoán, tịch thu như ở Việt Nam? Đây là lần thăm viếng thứ 16 của các phái đoàn Tòa Thánh sang bàn thảo với phía Việt Nam. Dây dưa cù cưa mãi về những vấn đề cốt yếu căn bản cho sinh hoạt bình thường của một giáo hội. Và đây cũng là lần thứ tư Đức Ông Parolin thăm viếng Việt Nam. Điều đó cho thấy rằng mối liên lạc ngoại giao giữa Vatican và chính quyền Việt Nam còn nhiều vấn đề vướng mắc chưa được giải quyết trong quá khứ và ngay cả hiện tại. Những vấn đề mà đối với các nước khác trên thế giới đôi khi chỉ là vấn đề thủ tục thông thường và không gặp những rắc rối không cần thiết như thế! Chẳng hạn vấn đề tự do bổ nhiệm các linh mục và giám mục theo nhu cầu riêng của Giáo Hội. Vấn đề trả lại tài sản của giáo hội như việc chiếm đất tòa khâm sứ, đất Thái Hà, các cơ sở học viện như Đại chủng viện Piô 10 Đà Lạt. Trong đó, xin nhắc lại Thư chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về: Một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay, ngày 25-9-2008 mới đây về vấn đề nhà đất, tài sản giáo hội. Ngày 01/12/2003, Giám Mục Huỳnh Văn Nghi gửi thư tố cáo cộng sản Việt Nam vô lý về chủ quyền đất đai của Giáo Hội gởi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Chắc rằng vấn đề này còn phải nhắc lại nhiều lần, cù cưa lâu dài nữa cho đến khi nào giải quyết ổn thỏa. Tiếp đến là vấn đề giáo hội muốn tham gia vào các công tác giáo dục, xã hội và y tế như mở trường Trung học, đại học, mở các nhà thương, viện đưỡng lão, cô nhi viện, nhà phát thuốc cho nguời nghèo. Ngày nay, sau hơn 30 năm xã hội chủ nghĩa, xã hội Việt Nam đang trên đà tụt dốc đạo đức, luân lý đến khó hy vọng cứu vãn được. Nghĩ tới tương lai Việt Nam thì nhà nước cộng sản phải trao lại cho các tôn giáo cái quyền đào tạo con người về phương diện đạo đức và tâm linh. Không có các tôn giáo tiếp tay, xã hội Việt Nam đang đi đến thảm trạng suy đồi hầu như không còn thuốc chữa nữa. Mặc dầu, cả hai bên đều đưa ra những nhận xét lạc quan, có tiến bộ trong các cuộc đàm phán, tôi vẫn không tin là con đường bình thường hóa ngoại giao sẽ xảy ra xuông sẻ và dễ dàng. Bởi vì quá khứ lịch sử đau thương của các tôn giáo còn đó. Những nạn nhân vẫn còn đó.
Nhân dịp này, tôi xin trình bày rõ thực trạng giáo hội miền Bắc trước 1954 đã phải sống khốn khổ, chịu đựng như thế nào? Đã gặp môt số vấn nạn mà cho đến nay vẫn chưa giải quyết xong. Nếu chính quyền tỏ ra thiện chí thì chuyện không phải là không làm được. Phần phía lãnh đạo tôn giáo như các vị giám mục, cần can đảm đòi hỏi những gì mà chúng ta có quyền được đòi hỏi. Hãy chấm dứt chế độ xin cho. Xin cho là đường đưa tới hối mại, bất công và tham nhũng. Xin cho là phương tiện hủ hóa cá nhân và tổ chức tôn giáo. Xin cho là lệ thuộc là muốn nắm đầu, nắm cổ. Người ta không thể cho những điều mà người ta không có và không cần xin những điều mà người ta vốn có sẵn. Về vấn đề nguyên tắc, cùng lắm thì thương lượng. Đối đế thì đòi hỏi dựa theo lương tri và luật lệ nếu có. Phải thống nhất ý chí và hành động. Không thể chỉ nhìn thấy cái lợi vật chất trước mắt. Tránh tình trạng xé lẻ, cơ hội, “đi đêm”, “phải quấy” với từng địa phương, từng trường hợp. Đừng dựa vào cái “khôn ngoan” thế gian để cân bằng đạo lý và che mắt trên trời. Phải là một đòi hỏi chung không phải cho một cá nhân, một giáo xứ hay một địa phận. Rộng ra là cho tất cả mọi tôn giáo. Từ đó rút ra bài học cho bây giờ, cảnh báo cho các vị lãnh đạo cần phải có đủ can đảm và khôn ngoan để đối phó với tình hình hiện tại. Đã từ lâu, người viết đã nuôi ý định là phải viết về “mảng giáo hội” này, mảng giáo hội miền Bắc đã bị quên lãng vì rào che chắn của bức “màn tre” kể từ sau 1954. Không một tin tức nào lọt ra ngoài. Gần như không mấy ai biết rõ thực trạng giáo hội miền Bắc ra sao. Biết chung chung thì có. Biết cụ thể thì không. Miền Nam và miền Bắc lúc ấy như thể hai nước cắt đứt mọi quan hệ liên lạc và sau trở thành hai kẻ thù, hai chủ nghĩa đối đầu.Từ đó hình thành ở ngoài Bắc một thứ “giáo hội hầm trú” như trong các hang toại đạo thời xưa. Tất cả miền Bắc đều chiu chung số phận. Khổ nạn này nói sao cho đủ. Nhưng riêng người theo đạo thì gấp hai lần khổ nạn. Nhiều người sống bên lề xã hội, một thứ công dân bậc hai, không có công ăn việc làm. Con cái không được vào đại học hay vào đảng. Bài này viết lại một lần cho xong, vì những nhân chứng sống như linh mục Phạm Hân Quynh, Hồng y Phan Đình Tụng, giám mục Nguyễn Văn Sang, giám mục Lê Đắc Trọng, giám mục Chu Văn Minh, Trung Tá Thiết sẽ chẳng bao lâu sẽ không còn nữa. Không nói, không viết lại bây giờ thì đã quá muộn mất rồi. Dù chỉ nói lên được một phần nhỏ như tiếng kêu trên sa mạc thì cũng phải nói. Giai đoạn 1945-1949 Phải nói một cách công bằng là vào những năm 1945-46, có một bầu khí phấn khởi hăng say về khát vọng độc lập nơi người Thiên Chúa giáo. Việc lên nắm chính quyền của Việt Minh được nhìn nhận như một cơ hội tốt cho việc thực hiện nền độc lập ấy. Lúc ấy, người theo Thiên Chúa giáo vào khoảng 1.600.000 người với 15 giáo phận, 330 linh mục ngoại quốc và 14.000 linh mục Việt Nam phần đông đều chia sẻ tâm tình ấy. Mặc dầu trong 15 giáo phận mới có 3 giáo phận do giám mục Việt Nam đứng đầu: Bùi Chu có giám mục Hồ Ngọc Cẩn, Phát Diệm có Lê Hữu Từ và Vĩnh Long có Ngô Đình Thục. Bernard Fall, một nhà báo rất am hiểu chế độ CSViệt Nam viết: “Il est hors de doute que l’Église catholique d’Indochine fut à un certain moment à l’avant-garde du nationalisme Vietnamien.” (Trích Bernard Fall, Le Viet Minh, trang 165, 1960, Paris) Điều không còn gì để nghi ngờ nữa là giáo hội Thiên Chúa giáo ở Đông Dương vào một lúc nào đó đi hàng đầu trong trong tinh thần chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Bầu khí phấn khởi đó được chia sẻ ngay trong hệ thống hàng Giáo phẩm như linh mục tu sĩ và các chủng sinh cũng như về phía giáo dân làm “kinh ngạc” các thừa sai và phía chính quyền Pháp.
Về phía giám mục thì giám mục Nguyễn Bá Tòng là niên trưởng, 78 tuổi, Lê Hữu Từ 49 tuổi và người trẻ nhất là Ngô Đình Thục 42 tuổi đều ngả theo khuynh hướng chính trị chống lại người Pháp, thân thiện hoặc có cảm tình với Việt Minh. Như trong một phúc trình của Pháp, nhận xét của Đô đốc Argenlieu về giám mục Ngô Đình Thục như sau: “Ce prélat dont les sympathies pour le Viet Minh ne font pas de doute… Étant donné la personnalité agissante de Mgr Thuc et la situation politique encore troublée dans les provinces cochinchinoises, ce retour me semble prématuré” (Trích ASHAT Indo 10 H 4191: TFEO Alexandri, BR N%3219/2, Saigon le 11/11/1948. Trích lại trong Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’Inđépendance 1945-1954, Trần Thị Liên, trang 42). Dĩ nhiên thái độ các giám mục có khác nhau. Giám mục Thục khôn ngoan, cẩn
Riêng giám mục Nguyễn Bá Tòng đã thay mặt ba giám mục Ngô Đình Thục, Hồ Ngọc Cẩn và Lê Hữu Từ viết một lá thư bày tỏ khát vọng một nền độc lập cho Việt Nam, gửi cho Giáo Hoàng Piô 12 vào ngày 23/09/1945, tóm tắt như sau: “Notre peuple bien aimée d’ Annam a demandé à ses quatres évêques d’offrir à Votre Sainteté l’hommage de son profond respect et d’implorer sa bénédiction en faveur de notre indépendance qu’il a acquise et qu’il entend maintenir à n’importe quel prix... Nous, évêques Vietnamiens, prions votre Sainteté, la cour de Rome, leurs éminences les cardinaux, leurs excellences les archevêques, les évêques et tous les catholiques du monde, et en particulier de France, de soutenir la décision prise par notre chère patrie” (Lá thư này đã được phổ biến rộng rãi trong giới Thiên Chúa giáo. Trích Bernard Fall trong Le Viet Minh, 1945-1946, Paris, Ạ Collin, trang 165). (Dân tộc Việt Nam yêu quý của chúng tôi đã kêu cầu 4 giám mục gửi lên Đức Thánh Cha niềm kính trọng quý mến sâu xa và khẩn cầu Đức Thánh Cha chúc lành cho nền độc lập mà chúng tôi mới có được và sẽ duy trì nền độc lập với bất cứ giá nào... 4 giám mục Việt Nam chúng tôi khẩn cầu Đức Thánh Cha, triều đình Rô ma, các vị hồng y khả kính, các vị tổng giám mục, giám mục và tất cả những Người Thiên Chúa giáo trên thế giới, và đặc biệt người Thiên Chúa giáo bên nước Pháp hãy ủng hộ quyết tâm của tổ quốc thân yêu của chúng tôi). Và sau đây là một phúc trình của Pháp đánh giá về vai trò người Thiên Chúa giáo liên quan đến các biến cố chính trị thời bấy giờ: “Le mouvement anti-francais suscité par le Viet Minh a pu sans peine rallier la majeure partie du clergé tonkinois ambitieux et mécontent de la situation actuelle et d’évaluer à 30% la proprtion du clergé complètement acquise au VM.” (Trích AOM INDO GG Dos 125: Note sur le clergé en Indochine, non signé et non date. Trích lại Trần Thi Liên, như trên, trang 50) (Các phong trào chống Pháp do Việt Minh phát động đã lôi kéo không mấy khó khăn được phần đông hàng giáo sĩ ở Bắc Kỳ có tham vọng và bất mãn trong hoàn cảnh hiện nay. Và có thể có đến 30% hàng giáo sĩ đã ngả theo Việt Minh.) Cụ thể nhất là hai chứng từ như nhân chứng của linh mục giáo sư đại chủng viện Xuân Bích thời bấy giờ là Lm. Pierre Gastine do Trần Thị Liên phỏng vấn ngày 21-2 và 8-3-1990 và của Vũ Sinh Hiên phỏng vấn Lm. Phạm Hân Quynh, lúc bấy giờ là một sinh viên đại chủng viện. Ngày nay, còn có linh mục giữ được những tấm hình ghi lại một đám lố nhố áo đen, đứng tụ tập trước nhà hát lớn Hà Nội. Riêng Lm. Gastine đã ghi lại thái độ phấn khích của đám môn sinh như sau: “Le 2 septembre 1945, il y a eu un mouvement extraordinaire d’enthousiasme, dont on ne peut avoir idée aujourdh’ui (P…) C’était vraiment une explosion de joie. Des jeunes gens très patriotes ont proposé aux séminaristes de participer à la grande manifestation. Le Supérieur des Sulpiciens et l’évêque de Hanoi ont refusé. Le matin-même de la manifestation, les séminaristes se sont partagés en deux groupes: La Plupart des jeunes (“Les philophophes” car les deux premieres années du séminaire consistaient surtout dans un enseignement de Philosophie) sont allés manisfester, les plus âgés (“les théologiens”) sont restés... En fait, il y a eu à ce moment-là une atmosphère pénible de division entre les séminaristes et le corps professional. Ce qui a éte désagréable, c’est cette désobéissance aux Supérieus. On sentait bien après celà qu’ils n’avaient plus confiance dans leur professeurs. Certains jeunes séminaristes projetaient même de quitter le séminaire, et de tout casser, mais les plus anciens les en ont dissuadés et ils sont partis tranquillement en septembre 1945. (Trích phỏng vấn cha P. Pierre Gastine của Trần Thị Liên, sách dẫn trên, trang 51) (Ngày 02/09/1945, có một cuộc vận động kỳ lạ đầy nhiệt huyết mà người ta không có được ở ngày nay… Quả đúng là một niềm vui sướng bùng lên. Những người trẻ tuổi đầy lòng yêu nước đã đề nghị với các chủng sinh tham dự vào cuộc mít tinh lớn. Cha Bề trên cũng như giám mục Hà Nội (Giám mục Hà Nội lúc bấy giờ là đức cha Chaise) từ chối không cho phép đi biểu tình. Ngay buổi sáng hôm mít tinh thì các chủng sinh chia ra hai nhóm. Phần đông nhóm sinh viên triết đi dự mít tinh. (Nhóm triết học hai năm đầu chương trình Đại chủng viện) Nhóm Thần học (học 4 năm) lớn tuổi hơn phần đông không đi dự. Thật sự bầu khí lúc ấy là một điều khổ tâm khi có sự chia rẽ giữa sinh viên và giữa sinh viên với các cha giáo. Điều khó chịu là sự bất tuân lệnh các bề trên. Người ta cảm thấy rõ điều đó không còn có sự tín nhiệm vào các cha giáo nữa. Một số chủng sinh trẻ tuổi nghĩ đến việc rời bỏ chủng viện và buông xuôi hết, nhưng các chủng sinh lớn đã khuyên can họ và cuối cùng thi họ đã rời chủng viện một cách thầm lặng vào tháng 9-1945). Sau khi Đại chủng viện đóng cửa thì sau đó có khoảng 700 quân Tầu đã đến chiếm ngụ tại chủng viện.
(Từ trái) Các Lm. Phạm Hân Quynh, Nguyễn Trọng Oánh, và Nguyễn Văn Thông trước khi đi du học tại Pháp (Hà Nội) Vũ Sinh Hiên đã viết lại theo lời kể của Lm. Phạm Hân Quynh như sau: “Hôm ấy, ngay dưới chân lễ đài mà trên đó cụ Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập, là 180 thầy đại chủng sinh trong đồng phục áo chùng thâm, đi đầu là thầy Gioan Đỗ Tông (Sau làm cha chính xứ nhà thờ Cửa Bắc) với vóc dáng cao lớn nhất “tràng lý đoán” cầm lá cờ đỏ sao vàng. Tất cả các thầy đã hát vang một bài hát ca tụng nền độc lập của tổ quốc, do thầy Giuse Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức thuộc nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh vừa mới sáng tác tối hôm trước và các thầy đã tập hát ngay trong đêm, với một tâm trạng rộn rã như chưa từng có trong đời làm con dân đất Việt” (Trích bài: Thái độ của các giám mục miền Bắc đối với cộng sản từ 1945-1975, Vũ Sinh Hiên gửi cho người viết). Xin kể thêm tâm tình của Lm. Phạm Hân Quynh lúc bấy giờ cho rõ thêm. Những ngày đầu, người ta đã tự sáng tác những bài hát để hát lần đầu tiên. Chẳng ai hỏi Việt Minh là ai, cộng sản là gì. Ngay cả Hồ Chí Minh cũng không ai biết. Trước đây chỉ có nghe nói đến một người tên Nguyễn Ái Quốc là Cộng Sản, đang ở bên Nga. Không ai có thể nghĩ là hai tên đó lại chỉ là một người. Lẽ dĩ nhiên, chỉ sau này thì người ta mới biết rành rẽ. Nhiều chủng sinh, khoảng 40 người, phản ứng mạnh mẽ với các cha giáo người Pháp và bỏ tu. Trong số đó có Trần Tử Bình, sau này là tướng sư đoàn và làm đại sứ ở bên Tàu. Trên thực tế, các thừa sai lúc bấy giờ đã chứng kiến nhiều cảnh kinh hoàng đáng sợ hãi của đám chủng sinh trẻ khi họ tụ tập trước mặt nhà thờ lớn Hà Nội, căng biểu ngữ, căng cờ đỏ sao vàng với khá nhiều khẩu hiệu đe dọa như: Hãy trả lại Giáo Hội cho hàng giáo phẩm Việt Nam. Hay L’Église d’Annam aux Annamites. Giáo Hội Việt Nam trả lại cho người Việt Nam... Những nhiệt tình như thế lúc ban đầu chẳng bao lâu sau nguội tàn kể từ khi nhiều chủng sinh biết rõ rằng: Theo Việt Minh, chính là theo cộng sản. Bernard Fall viết: “Aucun Vietnamien ne veut plus de l’occupation coloniale, et tous sont, directement ou indirectement, engagés dans la lutte. Malheureusement, le “Front de l’Indépedance” Viet Minh communiste a monopolisé la résistance. La population ne veut pas plus du communisme que du colonialisme, mais pratiquement, il n’y a pas de troisième voie” (B. Fall, trích như trên, trang 167). (Không một người Việt Nam nào mong muốn chế độ thuộc địa chiếm đóng nữa và mọi người trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu. Nhưng bất hạnh thay, “Mặt trận dành độc lập” của Việt Minh cộng sản đã dành độc quyền cuộc kháng chiến. Dân chúng chán ghét cả chế cộng sản lẫn chế độ thực dân, nhưng thực tế, thường không có con đường thứ ba) Và nhiều người theo đạo bị giằng xé giữa đòi hỏi yêu nước, dành độc lập phải gia nhập với những người cộng sản và những đòi hỏi gắn liền vào tự do và niềm tin tôn giáo. Đó là những thảm trạng lương tâm (Drame de consciencsce) . Theo Lm. Gastine, tháng 9, 1946, Đại chủng viện mở cửa lại sau khi quân Tàu rút đi. Thái độ chính trị của các thầy chủng viện đã không còn cái nhiệt tình như trước nữa. Ngay cả dân chúng ở các xứ đạo cũng giữ một khoảng cách nghi kỵ Việt Minh là cộng sản. Chính giám mục Lê Hữu Từ đã có lần nói thẳng với Hồ Chí Minh: Tôi ủng hộ cụ trong việc dành lại độc lập đất nước, nhưng tôi sẽ chống đối đến cùng nếu cụ là cộng sản. Ranh giới phân chia cộng sản-tôn giáo dần rõ nét. Chẳng hạn trường hợp linh mục Trịnh Như Khuê làm phó xứ cho Lm. P. Paulis xứ Hàm Long, (Hàm Long thuộc quận Hoàn Kiếm, thời Pháp có tên là phố Douart de Lagrée, sau 1945 giữ tên là Hàm Long, theo Tự Điển đường phố Hà Nội, trang 85). Lm. Khuê sau này lên Giám Mục, Tổng Giám Mục rồi Hồng Y địa phận Hà Nội. Linh Mục Khuê có lập trường khá cứng rắn đối với Việt Minh được coi là cộng sản. Và dưới mắt Việt Minh, Lm. Khuê được coi là thành phần “phản cách mạng”, chống đối Việt Minh ra mặt. Chẳng hạn không cho các thanh niên treo cờ đỏ sao vàng trong sân nhà thờ, sáng ngày chủ nhật 27/10/1946. Linh mục bắt tháo gỡ xuống hay không cho các thanh niên mượn ghế nhà thờ v.v… Sự cứng rắn của Lm. Khuê, sau này là Tổng giám mục Hà Nội phải chăng cho thấy trước mối liên lạc tôn giáo-chính quyền trở thành băng lạnh và nghi kỵ? Từ sự nghi kỵ lúc đầu dần dần đưa đến sự sợ hãi, kinh hoàng vì những hành vi giam cầm, khủng bố, ám sát, thủ tiêu và phá hủy nhà thờ của cộng sản đối với giới tu sĩ và giáo dân. Ngay Phố Nhà Chung (Con phố trước mặt nhà thờ lớn, nối tiếp Lý Quốc Sư đến phố Tràng Thi, thời Pháp còn gọi là Rue de La Mission. (Trích Từ điển đường phố Hà Nội, trang 208) bị Việt Minh đốt phá... Cạnh đó, các thừa sai Pháp như Lm. Gastine bị bắt và giam ở Tây Sơn cùng với nhiều người khác, cách Hà Nội 50 km. Và rồi ở Huế, nhất là các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, các cơ sở tôn giáo bị phá hủy bình địa: “le 19 décembre 1946, le “rideau de fer” tombait sur le Nord d’ Annam, contrôlée entìerement par le VM et depuis, c’est le silence à peu près total sur les missions de Vinh et de Thanh Hoa”. (Trích MEP, CRT de 1948, Vinh, p. 80, 81, trích lại trong Trần Thị Liên như trên, trang 140) (Kể từ 19 tháng 12, 1946, “Bức màn sắt” rơi xuống toàn thể các tỉnh phía Bắc, Trung Phần bị VM kiểm soát hoàn toàn và kể từ đó, chỉ còn là sự im lặng hoàn toàn trên các vùng truyền giáo ở Vinh và Thanh Hóa). Trường học bị đóng cửa, chủng viện cũng vậy. Nhà thờ bị phá hủy, làng mạc Thiên Chúa giáo bị đốt cháy. Gần như Việt Minh có chính sách quét sạch. Và người ta cho rằng tất cả những việc phá hoại nằm trong chủ trương của chính quyền cộng sản. Chẳng hạn như ở xứ Cao Mai, Thái Bình, người ta cho biết có 180 người theo đạo gồm đàn ông, đàn bà, trẻ con bị nhốt trong nhà thờ và bị đốt cháy. “Les arrestations en masse étaient devenues si fréquentes- écrit B. Fall, qu ‘elles étaient ouvertement admises, même par le journal officiel du gouvernement républicain. On peut lire en effet, dans Cuu Quoc (Le salut national) du 1er novembre 1946: “ Le 20 octobre, nos services de police ont arrêté, au cours d’une opération, plus de 300 personnes. Après un examen attentif, la majorité d’entre elles est restée en prison, en attendant d’être trasférée dans les camps de concentratiọn” (Trích B. Fall, như trên, trang 69) ( Những cuộc lùng bắt tập thể trở thành như cơm bữa, ông B. Fall đã viết như thế, Và còn được công khai nhìn nhận trên tờ báo chính thức của chính quyền cộng hòa Thật vậy, người ta có thể đọc trên tờ Cứu Quốc, số ra ngày 1-11-1946 như sau :”Ngày 20-10, công an của ta đã bắt trong một cuộc càn quét hơn 300 người. Sau khi thẩm tra kỹ càng, phần đông bọn họ đều bị tống giam và chờ được đưa đi giam tại các trại tập trung (Trích B. Fall, trang 69). Vì vậy, khi mà chính phủ Bảo Đại dưới danh nghĩa chính quyền Quốc gia ra đời thì có vô số những người dân đủ loại thành phần, đặc biệt giới tư sản thành thị, giới trí thức, giới văn nghệ sĩ, giáo dân đã tìm đủ mọi cách trốn lánh về phía các vùng Quốc Gia. Sau này nó trở thành phong trào “dinh tê”, về thành, tránh tất cả những nơi nào có Việt Minh cộng sản chiếm đóng. Miền Bắc mặc nhiên chia ra hai vùng: vùng do chính phủ quốc gia và vùng kháng chiến do Việt Minh chiếm đóng. Chẳng hạn vùng Phát Diệm không bị Việt Minh cũng như Pháp chiếm đóng. Vì thế, các người dân ở các vùng như Hà Nội, Hà Đông, Phủ Lý, Nam Định kéo về. Các người ở các vùng Nghệ An, Thanh Hóa kéo ra ở đông đảo. Vào tháng 5, 1947, người ta tính ra có đến 60.000 dân ở các nơi kéo về. Một cách bất ngờ, dân số Phát Diệm lên đến 120.000 người không kể các vùng chung quanh Phát Diệm với đủ các đảng phái trốn tránh sự truy lùng của Việt Minh như Việt Quốc, Dân Tộc, Duy Tân, Việt Cách, Xã Hội rồi Công giáo cứu quốc (CGCQ). Hàng ngàn người đã bị bắt, trong đó có đảng phái, có tôn giáo bị giam cầm. Nhưng cũng có những cuộc thanh toán giết hại Việt Minh xảy ra ở Mưỡu Giáp, Phúc Nhạc, Gia Viễn, Trì Chính, Kim Sơn. Mối căng thẳng giữa giáo dân và Việt Minh mỗi ngày mỗi gia tăng. Nay đó là cuộc đối đầu giữa hai ý thức hệ, giữa vô thần và hữu thần. Cho đến năm 1949, kể như chấm đứt tính cách “khu tự trị” Phát Diệm. Không còn “khu vực trái đệm” (région tampon) khi người Pháp quyết định tung ra cuộc hành quân Anthracite vào tháng 10, 1949. Phát Diệm cũng mất tính cách “Trung Lập” (neutralité) mà giám mục Lê hữu Từ bằng mọi cách vẫn muốn duy trì. Và không muốn bị mang tiếng là đã về hợp tác với Pháp. Từ nay, lằn ranh Quốc-Cộng trên khắp vùng tam giác châu thổ sông Hồng Hà đã có ranh giới rõ ràng. Chỗ nào có lá cờ Quốc Gia phất phới thì chỗ đó không có chỗ cho Việt Minh cộng sản. Chỗ nào có tháp chuông nhà thờ, chỗ đó không chấp nhận cộng sản. Có thể Giám Mục Lê Hữu Từ muốn duy trì tính cách trung lập ấy, nhưng một số cộng sự viên của Giám Mục như Lm. Nguyễn Gia Đệ, Lm. Hoàng Quỳnh thì không. Lm. Quỳnh thì đã cộng tác với Pháp về phương diện quân sự, Lm. Hàm là bí thư và cố vấn riêng của giám mục Từ thì đã ngả theo phía người Pháp hay giải pháp Bảo Đại. Xin trích dẫn thơ trao đổi giữa Lm. Hàm và một linh mục tuyên úy trong quân đội Pháp, Lm. Marcel JEGO vào ngày 11-11-1949 như sau: “D’ailleurs aujourdh’ui même Mgr envoie les professeurs du grand Séminaire faire une tournée dans toute la zone récemment libérée pour expliquer aux paiens et fidèles les buts de l’arrivée des troupes de l’Union et donner des directives sur la conduite à tenir à l’égard des troupes francaises, directives toutes en faveur de celles-ci, pour éviter des attitudes regrettables comme celle du curé de Yen Binh par exemple. Mgr vous prie de présenter au général Alexandri, quand vous aurez l’occasion de le voir, ses salutations et ses remerciements et de lui faire connaitre, ainsi qu’au commandant Mollat, que, d’après les renseignements surs que nous avons recus, les VM sont décídés à livrer combat dans le Nga Son et dans le de Niang Bac vers Nga Son et des préparatifs fébriles dans le Yen Mo. Il est donc nécessaire de prévenir à temps, de consolider les défenses et d’avoir des troupes disponibles dans ces deux régions, encore très vulnérables. Les VM savaient bien qu’il s’agissait ici d’un premier essai des opérations du nouveau style pour établir le gouvernement Bao Dai. Ils mettront tout en oeuvre pour faire échouer cet essai”. Signé RP Ham, secrétaire particulier de Mgr Le Huu Tu, évêque de Phát Diệm (Trích ASIAT INDO 10 11 170 C 1312: Général CARPENTIER, le 29-11-1949: 2ème CR sur PD, 1265? FAE/3S. Trích Trần Thị Liên, như trên, trang 185). (Ngay hôm nay, giám mục gửi các cha giáo sư đại chủng viện đi một lượt tất cả các vùng mới được giải phóng để cắt nghĩa cho những người không theo đạo và có đạo về mục đích sự có mặt của quân đội Pháp, những chỉ dẫn có lợi cho việc quân đội Pháp đến đây, để tránh những thái độ đáng tiếc xảy ra như trường hợp cha xứ ở Yên Bình. Đức Giám Mục yêu cầu cha gửi lời chào mừng và lời cám ơn của ngài đến Đại tướng Alexandri khi cha có dịp gặp đại tướng cũng như thiếu tá Mollat mà theo những tin tức thu thập được một cách chính xác mà chúng tôi đã nhận được cho hay VM đã quyết định mở những trận đánh trong vùng Nga Sơn và trong vùng Niang Bac về hướng Nga Sơn và những chuẩn bị tấp nập trong khu vực Yên Mô. Đã đến lúc cần chuẩn bị kịp thời, củng cố lực lượng phòng thủ và có những đội quân trừ bị sẵn sàng ở trong hai vùng đó còn rất là yếu. VM biết chắc đây là một cuộc hành quân thí nghiệm đầu tiên, một cách hành quân mới mẻ để ta có thể thiết lập được chính quyền Bảo Đại. Họ phải bằng mọi cách phá hoại cuộc thí nghiệm này.) Lá thư trao đổi này khá quan trọng, nhưng không biết chắc có phải là đường lối chính thức của giám mục Lê Hữu Từ hay không? Và phải chăng Giám mục Lê Hữu Từ đang đóng vai trò hai mặt (double jeu), lợi dụng cả hai bên: Việt Minh lẫn Pháp, để giữ tính cách tự trị và trung lập trước đây? Chỉ có một điều chắc chắn là sau đó vài tháng vào năm 1950, Lm. Hàm bắt buộc phải rời bỏ Phát Diệm sang Luân Đôn và không bao giờ được trở về nước nữa. Lm. Hàm sau 1975 đã sang sinh sống ở vùng Ba Ngòi (Trois rivières) thuộc tỉnh Québec, Canada, sống ẩn dật và không bao giờ xuất hiện trước cộng đồng người Việt Hải Ngoại cũng như cho phỏng vấn. Người viết bài này đã trao đổi bằng điện thoại với Lm. Nguyễn Gia Đệ, viên quản lý của giám mục Lê Hữu Từ để hỏi về tình
Lm. Nguyễn Gia Đệ (1915-2002) Sự dứt khoát và minh bạch của hàng giáo phẩm Đông Dương đối với Việt Minh cộng sản kể từ lá thư chung sau đây. Thư chung của các Đức giám mục Đông Dương. Họp tại Hà Nội ngày 5 đến 10 tháng 11 năm 1951. Danh sách các vị ký thư chung Gioan Dooley, khâm sứ tòa thánh tại Đông Dương Xin trích dẫn đoạn quan trọng nhất liên quan đến chế độ cộng sản. “Vì tinh thần trách nhiệm quan trọng trước Thiên Chúa, vì mối tình tha thiết yêu quý anh em, chúng tôi thấy có bổn phận của chúng tôi phải loan báo cho anh chị em biết để đề phòng nạn cộng sản vô thần, một trong hiểm nguy lớn của thời đại chúng ta. Chủ nghĩa cộng sản phủ nhận Thiên Chúa, phủ nhận mọi tôn giáo, phủ nhận một linh hồn hằng sống, phủ nhận các quyền của con người và của gia đình. Chủ nghĩa cộng sản xung khắc tuyệt đối với công giáo đến nỗi Đức Thánh Cha đã phải tuyên bố là tuyệt đối không thể cùng một lúc vừa là cộng sản vừa là Thiên Chúa giáo và tất cả những ai là người theo đạo mà gia nhập đảng Cộng Sản thì coi như đã tách rời ra khỏi Giáo Hội. Chẳng những ngăn cấm không cho gia nhập đảng cộng sản, mà còn không được hợp tác và làm bất cứ điều gì để có thể đưa đảng cộng sản lên cầm quyền. Nỗi nguy cơ cộng sản rất là quan trọng và những hậu quả có thể rất là khủng khiếp mà chúng tôi cảm thấy bắt buộc cảnh giác anh chị em về những sự xảo quyệt và mưu mẹo của cộng sản nhằm đánh lừa người dân, sự xảo quyệt chỉ có cộng sản mới dám dùng để đạt tới đích. (Trích Bản tiếng Việt trong: Hàng Giáo phẩm công giáo Việt Nam 1995, trang 93) Lá thư chung của các giám mục Đông Dương phải được đặt trong bối cảnh lịch sử và chính trị của thập niên 1950 cho thấy tình hình thế giới phân chia lưỡng cực, đối đầu một mất một còn. Nó có thể đúng trước đây, nhưng không còn thích hợp hoàn toàn với hoàn cảnh chính trị hiện nay. Hoàn cảnh Việt Nam và đặc biệt giáo hội Việt Nam đã rơi vào tình huống bi kịch ấy mà bất hạnh thay, đất nước chúng ta đã du nhập chủ nghĩa ấy. Và mặc dù ngày nay không có lời cảnh cáo của các giám mục Đông Dương đi nữa thì hiện nay thực tế vẫn cho thấy rằng chủ nghĩa cộng sản vẫn là mối đe dọa không phải chỉ cho đạo Thiên Chúa mà thôi và hiểm nguy cho những ai dính chặt máu mủ vào chủ nghĩa ấy. Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản thống trị trên đất nước này thì chưa có lúc nào dân tộc Việt Nam được sống yên ổn, ấm no và hạnh phúc. Chưa lúc nào và có thể không bao giờ. Riêng giáo hội miền Bắc đã chịu những hệ lụy đắng cay mà vẫn phải sống nhẫn nhục và im lặng. (Còn tiếp) Re: Thực Trạng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo miền Bắc từ 1945-1975 (I) Tâm Việt Xin lỗi quí bạn, đây là website Tâm Việt muốn giới thiệu: Tiểu sử tổ sư sáng lập Vovinam Sau chán cảnh núi rừng, và càng ngày hiểu rõ bộ mặt của cộng Sản. Ông cùng môn đệ xuôi Phát Diệm. do lời mời của Trần Thiện, tổng chỉ huy bộ đội Thiên Chúa Giáo, ông cử môn đệ huấn luyện võ thuật cho bộ đội Nhà Chung và thanh niên Phát Diệm. Tháng 8 năm 1948 qua đường Phát Diệm Ông hồi cư Hà Nội tái mở những lớp võ cho thanh niên để gây dựng lại phong trào học Vovinam. Kiến thiết lại đời sống xã hội, khơi lại lòng tin yêu của thanh niên trong việc tu dưỡng tinh thần, rèn luyện thể xác. Re: Thực Trạng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo miền Bắc từ 1945-1975 (I) Bạn đời của dân hèn "Những ngày đầu, người ta đã tự sáng tác những bài hát để hát lần đầu tiên. Chẳng ai hỏi Việt Minh là ai, cộng sản là gì. Ngay cả Hồ Chí Minh cũng không ai biết. Trước đây chỉ có nghe nói đến một người tên Nguyễn Ái Quốc là Cộng Sản, đang ở bên Nga. Không ai có thể nghĩ là hai tên đó lại chỉ là một người" Hỡi ơi, chúng nó...điếm có kế hoạch, gạt gẫm người dân ngu khát khao độc lập một cách bất lương ngay từ thuở sơ khai. Lộ mặt cộng sãn, thì không thể nào có được Việt Nam độc lập đồng minh hội để gạt dân. Các vong linh thuộc các đãng phái đã gia nhập "đồng minh hội Việt Minh" có chết, cũng không được ngậm cười nới chín suối... Vô tình hợp tác với quỉ cs, tạo cơ hội cho cs tàn hại quốc gia VN, người dân VN, phong tục tập quán VN, tôn giáo tín ngưỡng, món ăn tinh thần của người VN...suốt mấy chục năm dài! Uất hờn này, có thể nào phai? Re: Thực Trạng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo miền Bắc từ 1945-1975 (I) mythanh Nhà ngoại của mt lúc nào cũng trưng ảnh của Đức Giám Mục Lê Hữu Từ vì ngài là ân nhân cứu mạng ông ngoại khi ông bị Việt Minh bắt đi. Vào thời đó những chức sắc không theo CS ở miền Bắc mà lọt vào tay VM thì chẳng mong gì có ngày về. May mắn thay khi đó ĐGM còn là cố vấn của chính phủ HCM nên đã có tiếng nói cứu ngoại được thả. mt xin phép giới thiệu các bạn đọc tiếng Anh một bài viết về Đức Cha trên báo Time từ năm 1951 (sorry ngay lúc này mt không có giờ dịch sang Việt Ngữ) Đức Cha Lê Hữu Từ _ Arms & the Bishops [www.time.com] Re: Thực Trạng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo miền Bắc từ 1945-1975 (I) Lê Văn MT có nghe các cụ nói tại sao sau 1954, nhât là thời TT Diệm, đức cha Từ không còn "năng nổ" như thời ở miền Bắc? Nhiều nguồn tài liệu cho biết là giữa đức cha Từ và ông Diệm có nhiều "bất đồng chính kiến". Như: Tạm dịch: ... đức cha Lê Hữu Từ noí với đại sứ Heath rằng ông Diệm là người rất đạo đức và thành thật, nhưng rất tiếc lại có tính tự phụ về sự hiểu biết của mình (và) ông Diệm lại thuộc hẳn về tầng lớp quan quyền và (do đó) khó mà lôi cuốn được số đông dân chúng.) [Seth Jacobs, “‘Our System Demands the Supreme Being’: The U.S. Religious Revival and the ‘Diem Experiment,’ 1954-1955,” Diplomatic History, Volume 25, Issue 4 (Fall 2001).] Re: Thực Trạng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo miền Bắc từ 1945-1975 (I) LaGiang Thực Trạng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo miền Bắc từ 1945-1975 ? Một Giáo Hội của máu và nước mắt trong vùng CSVN chiếm đóng toàn diện. Xem Đia Phân Vinh Năm từ năm 1954 trở đi là cả một ban hành giáo địa phận gồm ba tỉnh Nghệ Tĩnh Bỉnh bị nhận chìm trong suối máu do CSVN.
|