Tứ Đại Mỹ Nhân |
Tác Giả: Phạm Văn Bân | ||||||||
Thứ Hai, 08 Tháng 6 Năm 2009 22:30 | ||||||||
1) Chiêu Quân cống Hồ: Chiêu Quân tên thật là Vương Tường, là một cung phi của vua Nguyên đế nhà Hán (48 – 53 trước Tây lịch). Lúc bấy giờ vua nằm mộng thấy mỹ nhân cùng giao ước 100 năm. Nhà vua cứ ngày đêm mơ tưởng đến người trong mộng nên truyền các quan địa phương tìm cho được người đẹp trong giấc mộng. Thái sư Mao Diên Thọ lãnh phần việc ấy. Mao Diên Thọ thừa “nước đục thả câu”, ăn hối lộ của cung phi. Hễ ai đút lót tiền thì cho vẽ đẹp đẽ, xinh tươi dâng lên vua. Chiêu Quân đẹp nhất nên không chịu lo lót, lại còn xỉ vả Mao Diên Thọ. Do đó, khi cầm bức vẽ Chiêu Quân, hắn lấy viết chấm dưới mắt Chiêu Quân một chấm làm thành nốt ruồi. Rồi khi dâng tranh lên vua, hắn sàm tấu rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng có nốt ruồi mà sách tướng gọi là “thương phu trích lệ”. Ðó là nốt ruồi sát phu. Nhà vua nghe vậy nên không đoái hoài đến Chiêu Quân. Nhưng nhờ tiếng đàn tuyệt diệu, Chiêu Quân đã khiến cho Hoàng hậu thấu rõ oan tình và dàn xếp cho gặp Hán vương. Chiêu Quân được phong làm Tây Cung vì nhà vua nhận ra đúng là người đã gặp gỡ trong mộng. Mao Diên Thọ bị kết án nhưng trốn được qua đất Hồ, đem dâng Phiên chúa bức tranh của Chiêu Quân làm Phiên chúa say đắm! Giặc Hung Nô khởi loạn, binh Hán đại bạị Phiên chúa đòi phải cống Chiêu Quân thì mọi việc được yên. Trước cảnh giang sơn nghiêng ngửa, vua Hán đành phải ngậm ngùi đưa Chiêu Quân sang cống Hồ. Khi qua ải Nhạn Môn, trong nỗi niềm thương nước nhớ nhà, giận kẻ gian thần, nàng xuống kiệu, hướng về quê hương và dùng đàn khảy lên khúc “Khúc quá quan”. Giọng đàn bi ai thảm thiết, mọi người theo đưa đều não lòng nhỏ lệ Cây cỏ bên đường cũng héo hắt, gục xuống mặt đất như để buồn lây …338px-chieuquan_sdmn02 Nhìn một con chim lẻ cánh bạt gió về chiều, nàng xót xa cảm cho thân thế, cất tiếng ngâm: Cánh én cô đơn đượm tủi sầu, Ngang trời gió cuốn bạt về đâu. Quan san ngàn dặm vương thương nhớ, Hồ
2) Tây Thi và Trịnh Ðán. Tây Thi, còn gọi là Tây Tử, tên Di Quang, là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt (một nước thuộc tỉnh Triết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Ðông ngày nay) thời Chiến Quốc. Nàng xuất thân từ một gia đình nghèo, cha đốn củi, nàng dệt vải ở thôn Trữ La. Trữ La có hai thôn: Ðông thôn và Tây thôn, phần nhiều họ Thi. Vì nàng ở Tây thôn nên gọi là Tây Thi. Bạn nàng là Trịnh Ðán cũng là một giai nhân sắc nước, hương trời. Nhà ở gần sông, ngày ngày hai nàng cùng nhau ra đập sợi ở ven sông. Má hồng, nước biếc, hai bóng lộn nhau trông như hai đóa phù dung của buổi bình minh tươi đẹp. Vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, phải cùng vợ sang làm người tù chăn ngựa cho vua Ngô. Sau khi được thả về, lòng uất ức căm hờn, mong rửa thù. Ðại phu Văn Chủng hiến cho 7 kế phá Ngô. Một trong 7 kế là đem mỹ nữ sang dâng để mê hoặc vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành ngay. Trong vòng nửa năm tuyển được 2,000 mỹ nữ, lại chọn 2 người đẹp nhất là Tây Thi và Trịnh
3) Dương Quý Phi . Tên là Dương Ngọc Hoàng, nguyên là vợ của Thọ Vương Mạo . Thọ Vương Mạo là con của vua Ðường Huyền Tông (tên thật là Lý Long Cơ, còn gọi là Ðường Minh Hoàng. Triều Ðường: 618 – 907), nhưng vì quá say mê sắc đẹp của Dương Quý Phi nên Ðường Huyền Tông chiếm đoạt và phong làm Quý Phi, gọi là Dương Quý Phi. Dương Quý Phi vừa đẹp, vừa thông minh nên vua Ðường đắm đuối yêu thương, bỏ mặc việc triều chính cho gian thần Lý Lâm Phủ trông coi. Lúc bấy giờ An Lộc Sơn, người Hồ, là tướng dũng mãnh, được nhà vua trọng dụng. Nhất là đối với Dương Quý Phi, nhờ khéo léo nịnh nọt nên họ An rất được yêu thương. An Lộc Sơn xin làm “con nuôi” của Dương Quý Phi để tiện ra vào làm chuyện gian dâm với Dương Quý Phi! Năm 755, An Lộc Sơn cử đại binh làm phản, đem 150,000 binh lính Khiết Ðan từ Phạm Dương kéo về chiếm Hà Bắc, Hà Nam, công hãm thành Lạc Dương, tự xưng là Yên Ðế rồi tấn công thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào Ba Thục.duongquyphi1nw Ðến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu chạy nữa, đồng lòng giết chết gian thần Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quý Phi) và bức bách vua Ðường phải thắt cổ Dương Quý Phi thì họ mới chịu phò vua. Lương thực hết, quân sĩ bất mãn, gặp bước đường cùng, vua Ðường đành dấu mặt, đứt ruột mà hy sinh “người đẹp khuynh nước, khuynh thành.” Mối tình vương giả này sẽ bị chìm vào quên lãng nếu không có ngòi bút tài hoa của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly bi đát. Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, quê ở Thái Nguyên, Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi, nhậm chức Hàn lâm học sĩ. Chứng kiến cảnh thảm khốc của một bi tình lụy của Ðường Minh Hoàng, họ Bạch cảm xúc làm bài “Trường hận ca” nổi tiếng, được dịch qua tiếng Pháp bởi Georges Soulié de Morant và tiếng Việt bởi Yã Hạc và Trinh Nguiên. Vì bài “Trường hận ca” dài quá nên chỉ liệt kê 4 câu cuối như sau:
(Tại thiên nguyện tác tị dực điểu,
Tập “Tây Bắc thảm kỳ” của Ðào Ngọc Sơn đời nhà Minh (1368 – 1628) có chép truyện “Quái nham Quý Phi toàn dục bích họa”, nghĩa là bức họa trên vách tả cảnh Dương Quý Phi tắm suối ở Quái Nham. Quái Nham là một hòn núi hiểm hóc ở Thiểm Tây, không có dấu chân người Ðường Minh Hoàng đã hạ chỉ bắt xây dựng cầu mây để đưa Dương Quý Phi vào đó vui chơi, tốn kém không biết bao nhiêu là tiền của, chưa kể nhiều người chết do làm cầu. Cửa hang nơi Dương Quý Phi vào tắm thì càng vào trong càng rộng. Tới mãi trong cùng thì có một bãi đất lộ thiên rộng tới vài chục mẫu, cỏ mọc xanh rờn như một tấm nệm trải phẳng phiu. Có nhiều thứ cây lạ. Chung quanh bãi ấy, thân núi dựng đứng như bức tường dài. Vách núi nhiều chỗ lại phẳng trơn như mài, bóng loáng rất đẹp. Dưới những vách đá là một con suối chảy lượn theo triền núi. Cách khoảng có những giọt nước từ trên khe đá tí tách rơi xuống hay những tia nước từ trong các mạch đất cuồn cuộn tuông ra, hợp với tiếng nước suối chảy tạo nên những tiếng nhạc êm tai. Dòng suối lại có những khúc rất sâu, nước trong vắt thấy tới đáy! Thật là một cảnh thần tiên. Ngày nay, di tích Dương Quý Phi vẫn còn. Trên vách đá phía Ðông thấy có hàng chữ “Dương Quý Phi toàn dục diễm tích” (dấu vết xinh đẹp khi Dương Quý Phi tắm suối). Các nét vẽ đều chạm khắc sâu vào thân vách nên dù có hơi phai nhạt màu nhưng trông như mới. Tất cả chừng 10 bức vẽ: lúc Dương Quý Phi cổi áo, lúc nàng nghịch nước, lúc lội suối với ngấn nước trong veo dần dần mờ in trên thân hình tha thướt, uyển chuyển, da trắng như tuyết, …. Dưới các bức vẽ có đề ngày 25 tháng 5 năm Thiên Bảo thứ 10 (tức năm 752). Cuốn “Dị Văn Lục” chép khúc vũ Nghê Thường là do Ðường Minh Hoàng lên chơi cung trăng mà ra. Lúc ấy, trăng sáng Ðường Minh Hoàng mơ được lên chơi cung trăng. Ðạo sĩ La Công Viễn dùng phép tiên biến giải lụa trắng thành chiếc cầu đưa Ðường Minh Hoàng lên nguyệt điện. Trong điện có tiếng nhạc du dương, các nàng tiên xiêm y lộng lẫy, mùi nước hoa quyến rũ đâu đây, uyển chuyển múa hát như đàn bướm muôn màu tha thướt bay lượn bên hoa. Ðường Minh Hoàng càng nhìn càng say mê, quên cả trời gần sáng, nếu không có La Công Viễn nhắc thì đã …quên trở về hạ giới. Khi trở về, Ðường Minh Hoàng nhớ lại và ghi thành khúc “Nghê thường vũ y” để rồi cứ đến rằm tháng Tám, Ðường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng, ngắm đoàn cung nữ múa khúc Nghê Thường mà tưởng chừng như đang ở Nguyệt điện. Tài liệu trên có tính cách thần thoại. Còn cuốn “Ðường Thư” ghi có phần thực tế hơn như sau: Ðường Minh Hoàng mơ lên chơi Nguyệt điện, thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim, xiêm y ngũ sắc, hát bài “Tây thiên điệu khúc”; đến khi trở về hạ giới thì còn nhớ mang máng. Nhằm lúc đó, có Tiết độ sứ là Trương Kính Thuật từ Tây Lương (Cam Túc ngày nay), đem khúc hát Bà La Môn đến hiến nên Ðường Minh Hoàng truyền đem san định lại và đổi tên là khúc “Nghê thường vũ y”. (Nghê: cầu vồng. Thường: xiêm ỵ Nghê thường nghĩa là xiêm y may bằng vải năm màu của cầu vồng. Vũ y: áo dệt bằng lông chim). Ðúng ra, căn cứ vào các tài liệu sử học và khoa khảo cổ, người ta cho rằng khúc “Nghê thường vũ y” là một vũ khúc Ấn Ðộ truyền sang Trung quốc qua “con đường tơ lụa” (route de la soie), khi đến Trung quốc thì được cải biến cho hoàn chỉnh hơn. Trong “Cung Oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều có câu: Dẫu mà tay múa, miệng xang, Thiên tiên cũng ngảnh Nghê thường trông trăng Trong “Bích câu kỳ ngộ” có câu: Ðong đưa khoe thắm, đưa vàng, Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha 4) Ðiêu Thuyền và kế liên hoàn. Văn học Trung quốc ban đầu có 6 cuốn sách được các nhà phê bình lỗi lạc gọi là “Lục Tài Tử thư”, cho đến khi bản “Tam quốc chí” của Trần Thọ, đời nhà Tấn, ra đời thì được xếp vào hàng thứ bảy. Sau đó, có nhiều ấn bản về giai đoạn 60 năm đặc sắc này của sử Trung quốc nhưng nổi bật là ấn bản “Tam Quốc Diễn Nghĩa” của nhà văn tài ba La Quán Trung. Ðiêu Thuyền xuất hiện trong truyện “Tam Quốc Diễn Nghĩa”. Ðiêu Thuyền bị loạn Ðổng Trác nên gia cảnh tan tành, cha mẹ bị giết hết, phiêu bạt lênh đênh, xin vào làm người ở cho quan Tư đồ Vương Doãn. Thấy nàng đẹp, có tài hát hay, đàn giỏi nên Vương Doãn nhận làm con nuôi. Ðổng Trác vốn làm chức quan nhỏ nhưng nhờ khéo léo dùng lễ vật làm nhân tình, lo lót nên thăng đến chức quan cao, thống lãnh hơn 200,000 quân ở Hiệp Tâỵ Lòng tham không đáy, Ðổng Trác nuôi mộng chiếm luôn ngôi vua. Nhân dịp triều đình bị loạn
Phải người cung cũ Chiêu Dương? (Chú giải: Bài ca này có ý khen Ðiêu Thuyền đẹp như nàng Triệu Phi Yến ở Chiêu Dương cung của Hán Thành đế: hai bàn chân nhỏ bằng hai ngón tay cái làm cho lúc đi thân hình trở nên uyển chuyển nhẹ nhàng, có thể đứng trên bàn tay người ta được (Ðây là chuyện thật của tục bó chân ngày xưa.) Ðổng Trác nhìn đắm đuối, đờ đẫn như kẻ mất hồn, ngây ngẩn ngẩn ngây. Ðiêu Thuyền lại cầm phách, gõ nhịp cất tiếng ca. Giọng trong như oanh kêu, cao như hạc gọi, khi trầm khi bổng, nghe thánh thót như rót vào tai, mà huyền huyền ảo ảo làm mê hồn tục khách! Ðó chính là: Nhất điểm anh đào khải giáng thần Trong cơn say rượu thịt, sắc đẹp, hát hay, múa giỏi thì đúng là … Ðổng Trác “hồn phi, phách tán”. Vương Doãn lại hứa dâng hiến Ðiêu Thuyền cho Ðổng Trác. Sau đó, Ðiêu Thuyền về làm vợ cho Ðổng Trác nhưng lại “câu rê” Lữ Bố để càng ngày càng ly gián hai cha con ra. Trong hậu trường, hai cha con Ðổng Trác và Lữ Bố ngày càng thù ghét nhau chỉ vì “đòn sóc hai đầu” của Ðiêu Thuyền. Một hôm, Ðổng Trác bị cảm, Ðiêu Thuyền tận tụy chầu chực thuốc men, cơm cháo. Trác lấy làm vui lòng lắm. Bố nghe tin vào phòng vấn an. Vừa lúc Trác còn ngủ, Ðiêu Thuyền đứng sau giường nhìn Lữ Bố, lấy tay chỉ lòng mình rồi lại chỉ Ðổng Trác và hai hàng lệ chảy ròng trên má. Bố đau đớn vô cùng. Ðổng Trác giựt mình thức dậy, thấy Lữ Bố đứng nhìn sau giường mãi thì trở mình qua, lại thấy Ðiêu Thuyền nên nổi giận nạt Lữ Bố: -Sao mi dám giễu cợt ái cơ ta? Một lần khác, Lữ Bố lén gặp Ðiêu Thuyền. Ðiêu Thuyền tỏ vẻ tươi cười bảo Lữ Bố: -Lang quân ra sau vườn đến Phụng nghi đình mà chờ thiếp. Ðiêu Thuyền trang điểm xong, vội vàng bước ra Phụng nghi đình gặp Lữ Bố, rưng rưng nước mắt nói: -Thiếp tuy là con nuôi của quan Tư đồ song người coi như con đẻ. Người gả thiếp cho lang quân là chọn chỗ xứng đáng cho thiếp trao thân, gởi phận. Mừng chưa kịp no, không dè Thái sư (tức Ðổng Trác) lòng trâu dạ chó, bắt thiếp cưỡng bức như thế này. Sở dĩ thiếp chưa chịu chết vì chưa gặp mặt chồng. Nghĩ lại thiếp ngày nay chẳng khác hoa tàn, nhụy rữa còn phụng sự anh hùng sao đặng. Vậy thiếp xin tự tử trước mặt lang quân để lang quân hiểu rõ nỗi lòng của thiếp. Nói xong Ðiêu Thuyền nhắm ngay ao sen toan nhảy xuống. Lữ Bố lật đật ôm lại, cảm động nói: -Ta biết rõ lòng nàng lắm rồi Gặp đã lâu, Lữ Bố sợ Ðổng Trác về bắt gặp nên xách kích muốn đi. Ðiêu Thuyền nói: -Thiếp ở chốn khuê phòng nghe danh tiếng lang quân anh hùng trên đời có một, không ngờ lại bị có người kiềm chế như thế! Nói rồi lại khóc òa lên như mưa như gió một cách bi thảm. Bố lấy làm thẹn thùa, xấu hổ để kích xuống, ôm lấy Ðiêu Thuyền, rút khăn chậm nước mắt cho nàng, tìm lời vỗ về an ủi. Hai người đang bịn rịn, âu yếm, không nỡ buông nhau thì thấy Ðổng Trác! Trác nổi máu ghen sùng sục, Lữ Bố hoảng hồn bỏ chạy, quên cả cây kích dựa lan can. Trác cúi xuống, cầm kích phóng ngay vào người Lữ Bố nhưng không trúng. Sau đó, do lời khuyên của Lý Nhu, Ðổng Trác muốn gả Ðiêu Thuyền cho Lữ Bố nên gọi Ðiêu Thuyền vào và nói: -Sao mi dám tư thông với thằng Lữ Bố? Ðiêu Thuyền khóc nấc lên rồi kể: -Thiếp đương xem hoa nơi sau vườn, thình lình Lữ Bố bước vào, thiếp hoảng sợ toan chạy trốn. Hắn nói hắn là con của Thái sư, không hề chi, rồi cầm kích rượt thiếp đến Phụng nghi đình. Thấy nó sinh tâm xấu xa như vậy, thiếp định liều mình nhảy xuống ao sen. Nó lại ôm cứng lấy thiếp. Ðương cơn bối rối thì vừa may ngài vào kịp nên thiếp mới toàn tính mạng. Vậy mà Thái sư không thương lại còn nói oan, nói xấu cho thiếp. Trác nói: -Ý ta muốn gả mi cho Lữ Bố, vậy mi có bằng lòng không? Ðiêu Thuyền thất sắc, nức nở: -Thiếp đã thất thân với Thái sư, bây giờ Thái sư lại nỡ lòng đem đưa thiếp cho con là một thằng thất phu như thế thì trái đạo quá. Vậy thiếp thà chết còn hơn sống mà chịu nhơ danh. Nói xong Ðiêu Thuyền bước lại rút lấy gươm treo trên vách toan đâm vào cổ. Trác hốt hoảng, vội giựt gươm, ôm Ðiêu Thuyền vào lòng, v.v…. Cuối cùng, trong âm mưu với Vương Doãn và Lý Túc, chính Lữ Bố là người cầm kích đâm ngay yết hầu của Ðổng Trác. Trong “Thánh Thán Ngoại Thư”, nhà phê bình trứ danh Mao Tôn Cương viết về Ðiêu Thuyền như sau: “18 lộ quân chư hầu không giết nổi Ðổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Ðiêu Thuyền lại giết nổi Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nổi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Ðiêu Thuyền thắng nổi. Ôi, lấy chăn chiếu làm chiến trường, lấy son phấn làm khôi giáp, lấy mày ngài làm cung nỏ, lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn, lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược mưu cơ. Xem thế thì cái bản lãnh của “nữ tướng quân” quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay! Tây Thi với Ðiêu Thuyền cùng lấy sắc khuynh thành. Nhưng việc làm của Tây Thi còn dễ, việc của Ðiêu Thuyền khó hơn. Tây Thi chỉ phải đánh ngã một mình Ngô Phù Sai. Ðiêu Thuyền phải đồng thời đánh ngã cả Lữ Bố và Ðổng Trác. Phải luôn luôn nghĩ mưu kế trong lòng, thay đổi bộ mặt để đối phó với cả hai bên. Ta nghĩ rằng cái công của Ðiêu Thuyền đáng ghi vào sử xanh. Nếu như, khi Ðổng Trác bị giết rồi, Vương Doãn không vụng về mà gây ra cái loạn Lý Thôi, Quách Dĩ thì cơ đồ nhà Hán đã phục hưng ngay từ đó. Và như thế thì một cô gái như Ðiêu Thuyền há lại không đáng ghi tên vào nơi Phượng các, không được tô tượng ở chỗ Lân đài hay sao ? ……………… Cái tuyệt diệu của kế “liên hoàn” không phải là làm cho Lữ Bố giết Ðổng Trác đâu. Ngược lại, nhằm làm cho Ðổng Trác giết Lữ Bố. Nếu Trác cầm kích, phóng trúng Lữ Bố tức là Trác đã tự chặt một cánh tay và Trác sẽ bị tiêu diệt dễ dàng. Ðó mới là chủ ý. Riêng ta, ta yêu nàng Tây Thi thật lòng trở về với Phạm Lãi; và yêu nàng Ðiêu Thuyền giả vờ sống chết với Lữ Bố. Bởi vì tuy thân đứng trước Lữ Bố, nhưng lòng Ðiêu Thuyền bao giờ cũng chỉ nghĩ đến báo công nuôi dưỡng cho Vương Doãn mà thôi. Sau khi thành Hạ Bì thất thủ, Lữ Bố bị Tào Tháo giết, không biết tông tích của Ðiêu Thuyền ở đâu cả. Nàng chính là con rồng thiêng, chỉ lộ cái đầu, cái mình với đời mà không cho đời sau biết cái đuôi mình ẩn đi đâu hết! Có thế danh tiếng mới khỏi bị tổn thương.” Phạm Văn Bân
|