Góc Việt: Cái Đàn Đầu |
Tác Giả: Lê Bình | |||
Thứ Hai, 09 Tháng 3 Năm 2009 14:03 | |||
Mar 01, 2009 Cali Today News - Có một câu văn vần được truyền tụng trong dân gian không biết đó là ca dao hay là tục ngữ. Nó như vầy “Đàn bầu ai gảy nấy nghe, làm thân con gái chớ nghe đàn bầu” Câu thơ trên đã phần nào nói lên được sức quyến rũ của cây đàn bầu. Nhưng với chị Ba Gò Công thì nói ý nghĩa không phải như vậy “Chỉ vì có chữ bầu trong đó, bà mẹ khuyên con coi chừng nghe lời đường mật của đàn ông mà có bầu…”. Đố ai mà biết chỗ nào để cãi khi nghe bà Ba Gò Công nói chắc như bắp. Nhà chị Ba có hai luồng ái mộ, cũng thì băng nhạc nhưng bà vợ thì mê TN Paris, còn ông chồng thì Asia mà thôi. Ông nói với sắp nhỏ trong nhà “Mẹ tụi bay mê thằng cha già …đó chớ gì. Nghe nó nói thì bán lúa giống mà ăn các con ơi. Cá trê chui ống.” Thật ra ông Ba thưở ban đầu cũng nghe TN như bà vợ, nhưng từ cuốn “B40” theo ông là “phản bội, đâm sau lưng chiến sĩ” thế là ông từ giả và “cằn nhằn cử nhử” bà vợ hết biết. Hôm đó là ngày cuối tuần, mọi người coi phim sau bữa ăn, chị Ba Gò Công cho nghe những khúc dân ca quê hương qua những DVD chị đã mua. Trong các dĩa nhạc của chị là những bài Lý, cổ nhạc, những loại đàn cổ Việt Nam đều có. Chị nói “Nghe đã lắm chú ơi. Già rồi chỉ còn có cái thú đó thôi.” Chị tâm sự “Tôi có mấy đứa cháu thích âm nhạc, nhưng mẹ của nó cho đi học đàn tây không hà.” Chị mơ màng “Đàn tây đâu có hơn đàn Việt đâu chú. Coi đó, chiếc đàn bầu chỉ có một dây mà đờn đủ các loại tân cổ. còn đàn nhị thì có thua gì cây đàn Violin.” Cũng không thể nói chị Ba “hoài cổ”, thực tế cho thấy nhạc khí VN trên nhiều phương diện đã làm cho những bài bản tân nhạc thêm lâm ly mùi mẫn không chối vào đâu được. Bạn bè chê chị nầy “quê mùa”, chị Ba không thèm nói, nhưng trong chỗ thân tình chị càm ràm “mấy người đó mất gốc, vọng ngoại”. Cũng khó mà cãi chị cho được. Nhắc đến nhạc cổ truyền Việt Nam, tại San Jose có nhóm nhạc của nhạc sĩ Vũ Hồng Thịnh “chuyên trị” các loại nhạc khí nầy. Nhiều người cho rằng “mê” nhạc cổ Việt Nam như chị ba Gò Công là “xưa rồi diễm”, nhạc tây phương có thính phòng với hàng chục loại nhạc khí “dềnh dàng”… Trích dẫn đoạn báo ở trên, chị Ba Gò Công chắc là vừa lòng lắm đó. Chị cũng có cái lý của chị. Trở lại cây đàn bầu. Theo Nhạc Sĩ Phạm Thúy Hoan giới thiệu vài nét về đàn bầu: “Cây đàn bầu độc đáo trong đời sống âm nhạc dân tộc. Vâng, thật là tuyệt diệu, chỉ với 1 sợi dây thép căng dài trên mặt đàn, 1 đầu dây cột dưới đàn, 1 đầu dây cột vào cần đàn, trên cần có nửa trái bầu, thế rồi chỉ với một cây que ngắn trong bàn tay mặt, khảy vào một số điểm trên dây, người nghệ sĩ tạo ra vô vàn âm thanh quyến rũ: Một dây nũng nịu đủ lời Theo bài viết thì lịch sử cây đàn bầu như vầy: “Dựa vào chuyện kể của GS Trần Văn Khê, thầy nói rằng trong 1 bài tham luận về đàn bầu nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khóat, đọc tại Bulgary nhân dịp Liên Hoan Âm Nhạc Dân Gian, nhạc sĩ kể lại rằng: Tương truyền ngày xưa có 1 người tên là Trương Viên cùng các trai tráng phải lên đường chống giặc. Trước khi đi, Trương Viên dặn vợ, nếu chẳng may loạn lạc khắp nơi, thì hãy dẫn mẹ trở về quê lánh nạn. Chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, vợ Trương Viên phải dắt mẹ trở về quê, trên đường đi vất vả, cực khổ, nhiều khi nàng phải nhịn đói để nhường cơm cho mẹ. Một buổi sáng kia, khi đi ngang qua 1 làng nọ, bỗng nhiên người trong làng đổ xô ra niềm nở chào đón, lại còn đãi mẹ con 1 bữa cơm thịnh soạn. Hai mẹ con nhìn nhau ngơ ngác, không hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa. Đợi cho hai người ăn xong, 1 bô lão trong làng mới nói lý do. Đó là mỗi năm làng phải tế cho hung thần cặp mắt của một người phụ nữ. Không muốn người trong làng bị móc mắt, làng bèn đạt ra lệ rằng mỗi năm đúng ngày giờ này, người phụ nữ nào đạt chân vào làng trước thì sẽ được đãi một bữa ăn thịnh soạn, sau đó thì bị xin cặp mắt. Nay bà lão đặt chân vô trước, vậy xin cặp mắt của bà lão. Nghe vậy, vợ Trương Viên òa khóc, rồi quỳ xin được hiến cặp mắt của mình thay cho mẹ. Dân làng bằng lòng, thế là họ móc cặp mắt nàng. Chiến tranh chấm dứt, Trương Viên trở về nhà thì không thấy mẹ và vợ đâu cả. Hỏi thăm mọi người thì cũng không ai biết. Đoán là hai người đã về quê, Trương Viên vội vã đi kiếm. Trên đường đi, anh cũng đi ngang cái làng có hung thần, hỏi thăm thì mọi người thuật lại hiếu thảo của nàng dâu, nhưn họ không biết sau đó hai mẹ con đi đâu nữa. Trương Viên buồn bã, đành lang thang đi tìm khắp nơi. Bỗng một hôm khi ngang qua một cái chợ nhỏ, Trương Viên nghe thấy tiếng đàn rất lạ, rồi lại thấy một đám đông đứng chen chúc nhau, hình như họ đang bị quyến rũ bởi tiếng đàn đó. Hiếu kỳ, Trương Viên lách vào coi, thì giật mình nhận ra vợ mình đang đàn 1 cây đàn lạ, còn mẹ đang ngồi ngã nón xin tiền. Trương Viên mừng rỡ, ôm chầm lấy mẹ và vợ, cả ba người khóc như mưa. Riêng người vợ thì bao nhiêu nhớ nhung, khốn khổ vất vả, lạ còn bị đui mù nữa khiến nàng tủi thân, tức khóc mãi, khóc mãi, khóc mãi đến khô hết nước mắt, rồi thì máu mắt chảy ra. Lạ thay khi dòng máu bắt đầu chảy cặp mắt nàng trở lại như xưa.” Ôi! Đàn bầu quê tôi! Đàn bầu quê tôi! Bây giờ xin mời làm quen với cây đàn bầu độc đáo của dân tộc. Đàn bầu là loại đàn hình hộp chữ nhật, 1 đầu to, 1 đầu nhỏ hơn 1 chút, thường dài khoảng 110cm, bề ngang khoảng 12.5cm, đầu nhỏ khoảng 9.5cm, cao khoảng 10.5cm. Mặt đàn và đáy đàn bằng gỗ ngô đồng, hoặc gỗ thông hay gỗ tung. Mặt đàn hơi cong lên 1 chút, đáy đàn phẳng có 1 lỗ nhỏ để treo đàn, 1 hình chữ nhật ở giữa để cầm đàn,và 1 khoảng trống để cột dây đàn. Thành đàn bằng gỗ cứng như cẩm lai, hoặc mun để cho chắc chắn và có thể cẩn ốc được. Trên thành đàn phía tay mặt người khảy đàn có 1 miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn, qua ngựa đàn, sợi dây thép dầy khoảng 40mm được luồn xuống và cột vào cái trục xuyên qua thành đàn gọi là cái trục lên dây đàn, trục này đẹp vì nó được dấu phía sau thành đàn, nhưng rất dễ tuột dâym vì vậy ngày nay người ta dùng khóa sắt cho chắc hơn. Về phía tay trái người đàn, có 1 cần dây đan còn gọi là vòi đàn trên đó gắn nửa trái bầu khô hoặc tiện bằng gỗ, 1 đầu dây đàn cột vào cần khoảng giữa bầu đàn. Ngoài ra, để tăng âm lượng tiếng đàn, người ta lắp mobin điện vào dưới mặt đàn, đồng thời phải khoét 1 lỗ cắm dây zắc dẫn tín hiệu rung của dây vào bộ phận tăng âm. Chính vì xài điện nên dây đàn phải dùng dây bằng thép thay vì bằng inox. (http://www.tienghatquehuong.com/Samples/VaiNetDB.htm) Nhiều người trong số bạn bè của chị Ba Gò Công nghĩ rằng những nhạc khí cổ của VN chỉ dành cho các ông già bà cả, còn đám trẻ ngày nay đâu có quan tâm lưu ý. Có thể họ lầm. Tại San Jose, ngoài nhóm nhạc của NS Vũ Hồng Thịnh, nhiều người tham dự các buổi ca nhạc còn biết đến nhạc sĩ Bùi Hữu Nhựt, anh là một kỹ sư điện toán, anh Nhựt xử dụng đàn bầu rất điêu luyện trong CLB Âm Nhạc Bắc California. “Thấy chưa, tôi nói đâu có sai. Nhờ chú mà tui biết đâu phải mình tôi mê cổ nhạc đâu cà.” Chị Ba vui vẻ nói. Buổi chiều trời ui ui, không mưa nhưng có gió lạnh. Bên lò than hồng bập bùng với mấy con khô mực đang nướng, những ly rượu tây màu cánh dán sóng sánh trong những chiếc ly thủy tinh, thì những nhạc phẩm quê hương, dân ca với tiếng đàn bầu đã mang không khí gần với quê nhà.
|