Liên hợp quốc (LHQ) đã đưa ra cảnh báo rằng, việc Trung Quốc xây dựng một loạt đập thủy điện trên sông Mekong sẽ là mối đe dọa lớn cho tương lai của Đông Nam Á.
Đập nước được xây dựng từ khe sâu thẳm trên sông LanThương (Cách gọi sông Mê Kông của Trung Quốc) (Ảnhinternationalrivers) Khi hoàn thành, đây sẽ đập nước cao nhất thế giới (Ảnh sinohydro) Theo AP, Trung Quốc đã xây tám đập nước ở phần thượng lưu sông Mekong, thuộc tỉnh Vân Nam, trong đó có đập nước Tiểu Loan cao 292m khi hoàn thành sẽ là đập cao nhất thế giới, sức chứa bằng các hồ nước ở Đông Nam Á cộng lại. Nhà máy điện Tiểu Loan ở đập Tiểu Loan tại tỉnh Vân Nam (Ảnh mekongriver) Công trình đập Tiểu Loan (Ảnh iwhr) LHQ nhận định, việc xây đập Tiểu Loan sẽ làm thay đổi lượng nước và nhịp độ của dòng sông, làm giảm chất lượng nước và làm mất tính đa dạng sinh thái của sông Mekong. Cày ruộng ở khu vực là hồ chứa tương lai của đập Tiểu Loan (Ảnhinternationalrivers) Toàn cảnh hạ du hữu ngạn công trình Tiểu Loan (Ảnh THX) Toàn cảnh hạ du tả ngạn công trình Tiểu Loan (Ảnh THX) Phần kết: Đập 'giết' sông Mekong, trầm tích sẽ 'giết' đập
Các đập thủy điện Lan Thương sẽ giết chết Mekong và rồi trầm tích sẽ làm tiêu tan các đập thủy điện ấy. Những nước hạ nguồn và cả Trung Quốc sẽ phải trả giá đắt cho dự án phát triển “ngông cuồng” và thiếu thận trọng này. Bình minh Mekong - đoạn chảy qua Pakbeng, Lào (Ảnh flickr) Lợi ích đáng ngờ Uỷ ban sông Mekong về cơ bản đã xem xét lại quan điểm của mình về hệ thống đập trên dòng chính Mekong. Một trong những sự cân nhắc ấy là dự án “nắn dòng” quy mô lớn. Các dự án nắn dòng vẫn khá phổ biến với giới chính khách Thái Lan khi họ mong muốn nó sẽ hỗ trợ cho các khiếm khuyết từ hệ thống đập ở Thái. Nhưng đó là suy nghĩ không đúng đắn, và chính khách Thái với quan điểm như vậy thường bị gọi là “khủng long”. Những dự án thuỷ lợi trong mùa khô ở đông bắc Thái Lan thường làm suy thoái chất lượng đất do quá trình kiềm hoá và muối hoá. Dự án thuỷ điện Nam Theun 2 của Lào cũng đang gây tranh cãi. Nó có thể giết chết cá và nghề cá ở ba lưu vực sông: Nam Theun, Nam Hinboun, và Xe Bang Fai. Kế hoạch tái định cư và trồng rừng phòng hộ là phi hiện thực. Việc dự án sẽ mang lại các lợi ích như các nhà thúc đẩy dự án hứa hẹn là điều đáng ngờ. Nam Theun 2 sẽ để lại những hậu quả và tranh cãi về môi trường, xã hội như đập Pak Moon của Thái Lan. Xâm nhập mặn ở tiểu vùng Mekong cơ bản là một hiện tượng tự nhiên. Hệ sinh thái cửa sông Mekong dựa trên đặc tính thuỷ triều bao gồm “xâm nhập mặn”. Đời sống thực vật, động vật cửa sông và ven biển đã cùng “hoà hợp” với thuỷ triều, với sự thay đổi độ mặn. “Gạo hương nhài” - sản phẩm của Thái Lan nổi tiếng trên thị trường quốc tế, đã thích hợp với loại đất trồng độ mặn cao. Những loại cây trồng tương tự rất phổ biến ở tiểu vùng Mekong. Việc tưới tiêu trong tiểu vùng phụ thuộc phần lớn vào thuỷ năng thuỷ triều tận dụng để đưa nước ngọt vào kênh thuỷ lợi và ra các cánh đồng. Do dòng chảy giảm trong mùa mưa và giảm bớt khả năng rửa đất, sự muối hoá và kiềm hoá ở các đồng bằng cửa sông, bao gồm những vựa lúa lớn của tiểu vùng Mekong, sẽ trở nên trầm trọng hơn bởi sự “kiểm soát” của Trung Quốc với dòng chảy Mekong trong mùa mưa, mùa khô. Lợi ích lớn nhất mà các đập thuỷ điện Lan Thương (Trung Quốc) có thể mang lại cho những quốc gia hạ nguồn, đặc biệt là Campuchia và Việt Nam, có thể là kiểm soát lũ lụt và ngăn chặn hoặc giảm nhẹ khô hạn. Lũ lụt Mekong trở nên thường xuyên và mạnh mẽ hơn trong vài năm gần đây, và xu thế này dường như vẫn tiếp tục. Nguyên nhân chính là do phá rừng và sự ấm nóng toàn cầu. Về ngắn hạn, các đập thuỷ điện Lan Thương, đặc biệt là hai đập lớn, trên thực tế sẽ cung cấp một biện pháp ngăn chặn lũ lụt nếu nước được giữ lại trong các hồ chứa. Tuy nhiên, về dài hạn, các đập Tiểu Loan và Nuozhadu có thể gây ra lũ lụt lớn hơn thời điểm trước khi chúng được xây dựng. Mục đích chính của các con đập này là cung cấp điện cho tiến trình công nghiệp hoá của Trung Quốc. Điều này không phù hợp với vai trò ngăn chặn lũ lụt lớn bất thường. Trong một viễn cảnh tồi tệ, các đập thuỷ điện này sẽ gây ra lũ lụt lớn hơn nhiều trước đây. Gây thêm hạn hán, lũ lụt ở các nước hạ nguồn Người dân ở tiểu vùng Mekong và đặc biệt là tại các nước hạ nguồn như Campuchia và Việt Nam đặc biệt lo lắng về lũ lụt. Hạn hán thậm chí đe doạ hơn. Về mặt lý thuyết, người dân có thể chuẩn bị và đối phó với lũ lụt tốt hơn là hạn hán. Sự thương vong và tổn thất từ lũ lụt gây chú ý lớn nhưng hạn hán có thể kéo dài hơn, hậu quả tàn phá lớn hơn và thậm chí làm mất khả năng tự cung cấp lương thực cho một quốc gia hay một khu vực. Hạn hán có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới sự huỷ diệt những loài cá nước ngọt trong các lưu vực sông nhiệt đới. Những loài cá rất khác nhau về khả năng tránh được tác động của hạn hán cũng như khả năng chống chọi hạn hán. Trong khi một số loài cư ngụ ở đầm lầy có sức kháng cự cao với khô hạn, thì rất nhiều loài khác không thể sống mà không có dòng chảy liên tục. Đa số loài cá nước ngọt sống ở những môi trường dòng chảy từ các dòng sông lớn nhất tới con suối nhỏ nhất. Dòng chảy sẽ ngừng lại nếu thiếu nước hoặc hạn hán. Các loài cá ven sông sẽ có sự thích nghi khi đối mặt với hạn hán bằng cách theo dòng chảy ra khỏi khu vực thượng hoặc hạ nguồn. Số khác ẩn sâu vào bãi ngầm hoặc lòng sông nơi chúng ít hoạt động cho tới khi dòng chảy khôi phục trở lại. Con người sống ở các khu vực dân cư đông đúc với nhiều thành phố lớn có lượng nước bề mặt hoặc lượng mưa phong phú (như Bangladesh, Campuchia và Việt Nam) đặc biệt rất dễ tổn thương với sự đe doạ của lũ lụt cũng như hạn hán. Đập thuỷ điện Lan Thương của Trung Quốc và lịch trình nắn dòng Mekong thành tuyến đường thuỷ có thể góp phần gây ra hạn hán ở nhiều cách khác nhau. Trong thời gian ba năm trữ đầy hồ chứa tương đối nhỏ (1993-1996), đập Manwan của Trung Quốc là nguyên nhân khiến các dòng chảy mùa khô thấp hơn mức thông thường tại hạ nguồn bắc Thái Lan và Lào từ Chiang Saen. Ảnh hưởng tới giao thông đường thuỷ do dòng chảy giảm thậm chí còn tác động tới cả những tàu thuyền nhỏ trên sông và tác động tới nông nghiệp, nhưng chưa quá lớn. Trữ đầy các hồ chứa khổng lồ của đập Tiểu Loan và Nuozhadu có thể là nguyên nhân gây ra ảnh hưởng tiêu cực với mùa khô hạ nguồn, tàn phá nông nghiệp, nghề cá và cả cuộc sống con người. Kết quả rõ ràng khi nước giữ lại trong các hồ chứa lớn là sự bay hơi. Lượng nước bay hơi từ hồ chứa có thể khá lớn. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm diện tích bề mặt hồ chứa, nhiệt độ nước, vận tốc gió, độ ẩm và áp lực không khí. Những thực vật sống ở nước như dạ lan hương nước với tỉ lệ thoát hơi nước cao có thể khiến một lượng lớn bay hơi từ hồ chứa. Loại thực vật ngoại lai gây hại này giờ đây khá phổ biến ở các vùng trung và thấp trong lưu vực Mekong và tràn vào các hồ chứa cũng như dòng chính Mekong và đồng bằng châu thổ Campuchia gồm cả Tonle Sap. Kế hoạch điều khiển dòng chảy Mekong của Trung Quốc sẽ làm gia tăng sự xâm nhập của dạ lan hương nước, với hậu quả trực tiếp là nước bay hơi cũng như bị giảm chất lượng. Tạo ra và duy trì một hệ thống đường thuỷ trong dòng chính Mekong cũng sẽ góp phần gia tăng những thảm hoạ bất ngờ như hạn hán, lũ quét. Khô hạn đặc biệt nghiêm trọng sẽ xảy ra ở những đồng bằng nằm sâu trong nội địa của Campuchia (gồm cả Biển Hồ) và tiểu vùng Mekong tại Việt Nam. Dòng nước lụt Mekong không đủ khả năng tới những khu vực này, hoặc giảm lưu lượng, thời gian tồn tại cũng như quy mô, sẽ góp phần làm hạn hán gia tăng và mở rộng hơn. Điều đáng lo ngại là số phận của mực nước ngầm. Trong vòng sáu tháng hoặc hơn thế mỗi năm, hầu hết các đồng bằng cửa sông của Campuchia bị khô hạn, rất ít hay không có mưa. Nước trở nên khan hiếm, con người bị ảnh hưởng, và khó tiến hành gieo trồng. Thu hoạch mùa màng phụ thuộc vào nhiều yếu tố may mắn. Trong một năm, nơi này có thể bội thu, nhưng nơi khác lại thất bát do lũ lụt, hoặc hạn hán. Việc Trung Quốc kiểm soát Mekong và hạn chế lũ lụt ở vùng đồng bằng châu thổ - nơi nông nghiệp và hoạt động nghề cá của Campuchia phụ thuộc, sẽ có hai chọn lựa: lượng mưa giảm không thể lường trước và ảnh hưởng tới mức nước ngầm. Nước ngầm duy trì ở một số khu vực bằng mùa lụt hàng năm của Mekong. Mực nước ngầm sụt giảm sẽ là một tác động tiêu cực khác về lâu dài của đập thuỷ điện cũng như lịch trình nắn dòng Mekong của Trung Quốc với các nước vùng hạ nguồn. Các nỗ lực giải quyết việc cung cấp nước cho nông nghiệp tại các vùng đồng bằng thấp ở Mekong bằng cách hút nước ngầm tưới đất sẽ không thành công, hoặc không đáng tin cậy. Những khó khăn dự đoán trước bao gồm những vấn đề về kiềm hoá, muối hoá, phí tổn và thảm hoạ lũ lụt phơi bày. Vấn đề nước ngầm nhiễm thạch tín (như ở Bangladesh) có thể nảy sinh. Đoạn kết Câu hỏi cuối cùng sẽ là “vấn đề gì lớn nhất?”: Duy trì số lượng, chất lượng cá và sự đa dạng sinh thái, hoặc cung cấp một cuộc sống tốt hơn cho con người (hiện tại và tương lai) ở hai quốc gia vào loại nghèo nhất thế giới là Lào và Campuchia? Trung Quốc đã đạt được một thoả thuận ngầm với Thái Lan là sẽ cung cấp điện từ dự án thuỷ điện Jinghong. Bản “ghi nhớ về việc phát triển tài nguyên nước ở Vân Nam và xuất khẩu điện” đã được ký giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Thái Lan năm 1993. “Thoả thuận Hợp tác phát triển các dự án thuỷ điện và xuất khẩu điện sang Thái Lan” ra đời tiếp theo vào tháng 2/1994. Chính phủ hai nước đã ký kết “thoả thuận xuất khẩu điện sang Vương quốc Thái Lan từ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” vào tháng 11/1998. Trung Quốc cũng giành được sự chấp thuận ngầm từ Myanmar, Lào và Thái Lan để đảm nhận sứ mệnh mở rộng “cải tổ đường thuỷ” trên 300km dòng chính Mekong đoạn chảy qua biên giới giữa Lào và Myanmar. Tuy nhiên, những tài liệu này không nên hiểu là thoả thuận của các nước vùng hạ nguồn để Trung Quốc tiếp tục chương trình thuỷ điện Lan Thương. Thái Lan nên xem xét việc thu hồi thoả thuận mua điện Jinghong. Myanmar, Lào và Thái Lan cũng nên cân nhắc khả năng thực thi kế hoạch đường thủy Mekong khi dự án này không có sự thảo luận công khai nào bao gồm cả những đánh giá về ảnh hưởng môi trường và xã hội. Campuchia và Việt Nam – hai nước vùng hạ nguồn nên phản đối các thiết kế phát triển Mekong của Trung Quốc bằng sự mạnh mẽ nhất có thể. Về dài hạn, sự phát triển nóng vội, thiếu thận trọng với Mekong của Trung Quốc sẽ bất lợi cho các lợi ích tốt nhất của tất cả quốc gia liên quan. Trung Quốc cũng không thoát khỏi hậu quả tiêu cực từ dự án thuỷ điện và nắn dòng Mekong. Khi cái giá khổng lồ về môi trường và xã hội trở nên rõ ràng, thì mọi trách nhiệm sẽ đổ trực tiếp vào Trung Quốc. Các kế hoạch thủy điện Lan Thương và nắn dòng Mekong của Trung Quốc sẽ đẩy Mekong vào sự suy giảm về mặt sinh học, ô nhiễm nặng nề, trở thành “dòng sông chết” như Dương Tử và nhiều con sông lớn khác ở Trung Quốc. Những lợi ích dài hạn từ các dự án này là đáng ngờ. Trung Quốc sẽ không thể điều khiển dòng Mekong như từng làm với Dương Tử, như châu Âu với dòng Danube, hay Mỹ với Mississippi. Thủy điện Lan Thương và hướng Mekong thành một tuyến đường thuỷ sẽ buộc các nước hạ nguồn phải nỗ lực một cách kiệt sức nhằm tự bảo vệ khỏi các tác động môi trường, với những tổn thất về nông nghiệp, nghề cá và sinh kế. Các đập thủy điện Lan Thương sẽ giết chết Mekong và trầm tích sẽ làm tiêu tan các đập thủy điện ấy. Những nước hạ nguồn và cả Trung Quốc sẽ phải trả giá đắt cho dự án phát triển “ngông cuồng” và thiếu thận trọng này.
|