Home Văn Học Văn, Nhạc, Thi Sĩ Felix Arvwrx và bài thơ Sonnet - Tình Tuyệt Vọng

Felix Arvwrx và bài thơ Sonnet - Tình Tuyệt Vọng PDF Print E-mail
Tác Giả: THÂN TRỌNG SƠN   
Thứ Ba, 25 Tháng 11 Năm 2008 15:08

Dalat -  2003 - Viết lại   6 / 2008

Félix Arvers (1806 – 1850)

   Không có nhiều tư  liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Félix Arvers (1806 – 1850). Sách văn học sử  Pháp (Collection littéraire LAGARDE & MICHARD, XIXe siècle) không hề nhắc đến Ông. Từ điển Hachette giới thiệu rất nhiều nhà văn, nhà thơ thuộc nhiều thời đại cũng không ghi tên Ông. Larousse thì chỉ nói vắn tắt: “Thi sĩ Pháp, nổi tiếng với bài Sonnet bắt đầu bằng câu: Mon âme a son secret, ma vie a son mystère”. Một tư liệu khác có vẻ cụ thể hơn cũng  chỉ ghi vẻn vẹn đôi  dòng ngắn ngủi:

“Félix Arvers là tác giả nhiều vở kịch khá thành công. Tác phẩm của Ông đã bị lãng quên, ngoại trừ tập thơ Mes heures perdues (Những giờ khắc hoài phí).”

Tập thơ Mes heures perdues xuất bản năm 1833, thời điểm mà tên tuổi các nhà thơ thuộc trường phái lãng mạn Pháp đã rực sáng. Không rõ tập thơ dày mỏng thế nào, chỉ thấy còn lưu truyền một vài bài, trong đó một số bài viết tặng bằng hữu, hoặc có ghi tên ( À Alfred Tattet, À Alfred de Musset), hoặc viết tắt hay giấu tên (À mon ami *** Sonnet à mon ami R.), để bày tỏ quan điểm về nghệ thuật, về thi ca...

Và tất nhiên hơi thở của dòng thơ trữ tình, bi thương của thời đại phả đầy trong thơ Arvers. Ông không ngần ngại nói rõ khát vọng kiếm tìm hạnh phúc của mình, dù đấy chỉ là thứ hạnh phúc bình dị của “chút tình tri kỷ”:

Thuở thanh xuân tôi từ bỏ tình yêu
Chỉ mong tìm mối tri âm đồng cảm
Người thấu hiểu nỗi lòng tôi sầu muộn
Trời đã cho tôi nhiều hơn tôi muốn
Với thời gian tình bạn ngọt ngào hơn
Và tình yêu đến khi không còn chờ đợi.

                (Sonnet à mon ami R.)

hoặc là thứ hạnh phúc gia đình với vợ đẹp, con ngoan, với bạn bè, láng giềng thân thuộc để sớm hôm hàn huyên tâm sự : 

           Tôi hằng mơ hạnh phúc một mái ấm
            Cho con tim xao động cõi đi về
            Sau bao tháng ngày lãng đãng u mê
            Tìm bến đỗ giữa thanh bình, an lạc.

Thế nhưng hạnh phúc đâu dễ tìm vì tình yêu đâu dễ gặp. Trước sau vẫn chỉ là “ người tình trong mơ ” bởi người chợt đến, chợt đi, không ước hẹn, ta trở về, thui thủi một mình ta.  

            Nàng đến, không gì báo hiệu
            Nàng đi, lặng lẽ, khiêm nhường,
            Chẳng dấu vết gì để lại
            Bước chân hờ hững trên đường.
            Từ đấy, u sầu, lặng lẽ,
            Tháng ngày chợt đến, chợt đi,
            Không còn ngạc nhiên, cảm xúc,
            Thấy vầng trán mình âm u
            Tựa như tia nắng vàng thu.
            Và khi không còn mong đợi
            Cánh cửa tương lai khép rồi
            Như kẻ lưu đày tự nguyện
            Tôi xa lánh hết mọi người
            Hạnh phúc duy nhất ở đời
            Yêu và được yêu – thế thôi.
                   (À mon ami ***)

             Những bài thơ như thế này (TTS dịch) chưa đủ để làm nên tên tuổi của tác giả và đều đã bị lãng quên. Trong toàn bộ tập thơ, duy nhất một bài được biết đến và chỉ cần bài này là đủ làm cho tác giả nổi tiếng, như cách nói của từ điển Larousse nêu trên.   Độc giả Việt Nam  biết đến Arvers cũng chỉ qua bài Sonnet này , trước tiên thông qua bản dịch của một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Bản dịch, với nhan đề  Tình tuyệt vọng, thành công đến nỗi nhiều người cho rằng nó còn hay hơn cả nguyên tác có tên đơn giản là SONNET, hoặc là SONNET D’ARVERS như người ta thường gọi.
Sống và sáng tác vào nửa đầu thế kỷ XIX, thời kỳ rực rỡ nhất của trường phái lãng mạn trong nền thi ca Pháp, vốn chuộng sự tự do thoải mái đến độ buông thả trong nội dung và hình thức, Arvers lại chọn Sonnet, một thể thơ đòi hỏi nhiều ràng buộc về hình thức. Mỗi bài Sonnet chỉ có 14 câu, bao gồm 2 khổ thơ bốn câu (quatrain) và 2 khổ thơ ba câu (tercet).

Mon âme a son secret, ma vie a son mystère.
Lòng tôi giấu một nỗi niềm tâm sự
Đời tôi đầy chuyện thầm kín riêng tây.

Đây rồi cái “tôi” (le “moi”) quen thuộc của trường phái lãng mạn, cái tôi mạnh dạn và thẳng thắn, không ngại ngần úp mở, không rào đón quanh co, được nhấn mạnh bởi cách dùng một loạt các tính từ sở hữu và đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất. Và ở đây cái tôi gắn liền với khái niệm khổ đau : “Le mal est sans espoir…”, “Hélas !”, “ solitaire…”.

            Le mal est sans espoir, aussi j’ai dû le taire
            Et celle qui l’a fait n’en a jamais rien su.
            (Nỗi đau chừng vô vọng
            Đành câm nín mà thôi
            Sao người làm tôi khổ
            Vô tình quá người ơi!)
    

Nỗi đau không nói được, xin mượn ngòi bút để thổ lộ can trường, bởi, nói như Alfred de Musset, một người bạn thơ của Arvers :

            Lời tuyệt vọng là lời ca đẹp nhất
         Vang vọng mãi tiếng nức nở thảm sầu.

             Un amour éternel en un moment conçu.
            (Tình chớm nở vội vàng trong thoáng chốc
            Mà tưởng chừng như đã kết ngàn năm.)    

 Hẳn là chàng gặp gỡ đã từ lâu. Hẳn là chàng đau khổ đã từ lâu .Bởi nàng nào đâu hay biết gì  . Và hơn thế nữa, suốt quãng đời còn lại cũng hoàn toàn vô vọng, “dù gặp nhau cúi mặt bước mà thôi “ :

            Et j’aurai jusqu’au bout fait mon temps sur la terre
            N’osant rien demander et n’ayant rien reçu
            (Tôi vẫn đi tiếp con đường phía trước
            Không dám cầu xin, chẳng  nhận được gì.)   

 Không dám. Dù chỉ một lần. Phải chăng vì chàng quá nhút nhát, e thẹn ? Không, chỉ vì Trời đã sinh ra nàng đoan trang quá, hiền hậu quá, hãy để nàng thủy chung, hãy để nàng chu toàn bổn phận. Cho hình ảnh nàng mãi thánh thiện. Cho Tình Yêu thăng hoa. Và trở thành bất tử. Ít nhất là với bài thơ này.

NÀNG LÀ AI? Bản dịch của Khái Hưng :

Đọc văn thơ, nghe âm nhạc, nhiều người vẫn có thói quen tò mò muốn biết ai là nguyên mẫu, là nguồn cảm hứng khiến người nghệ sĩ viết nên bài thơ, bản nhạc ấy. Trường hợp này cũng thế. Từ sau khi bài thơ được phổ biến, bao nhiêu giấy mực đã dành cho cuộc truy tìm lai lịch người đẹp khiến thi sĩ ôm mãi mối tình tuyệt vọng mà viết nên những dòng thơ trác tuyệt này.

Có ý kiến cho rằng dây chỉ là một hình ảnh phúng dụ (allégorie), người đẹp chẳng hề hiện hữu, hơn nữa trong các ấn bản đầu tiên của tập thơ, trên bài này có ghi chú “ dịch từ tiếng Ý ” (traduit de l’italien) nhưng vì không ai đưa ra văn bản gốc nên giả thuyết này không đứng vững được.

Một ý kiến khác, dựa vào quan hệ thân tình giữa Félix Arvers và Victor Hugo, cho rằng người đẹp bí mật này chính là … phu nhân của Victor Hugo mà Arvers đã kín đáo nhắc đến tên Adèle bằng cách dùng các vần “ fidèle ” và “d’elle” trong khổ thơ cuối !

Ý kiến khác nữa - có vẻ được nhiều người đồng tình - nhắc đến tên Marie Nodier, ái nữ của nhà văn viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp Charles Nodier (1780-1844), người thường tổ chức những buổi bình thơ văn tại thư viện Arsenal quy tụ nhiều thi sĩ lừng danh như Victor Hugo, Lamartine, Alfred de Vigny, Alfred de Musset… Những lần gặp gỡ thường xuyên nơi đây đã khiến Arvers thầm yêu trộm nhớ Marie Nodier mà không hề ngỏ ý cho đến khi nàng sang ngang vào năm 1833 và trở thành bà Marie Mennessier – Nodier.

Nhưng nói cho cùng, có nhất thiết phải biết rõ về người phụ nữ đó thì người đọc mới cảm mới thích bài thơ này không?

 Tình tuyệt vọng
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay.
Hỡi ôi !người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân ?
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi
Người dù ngọc nói, hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Nào ngờ chân đạp lên trên khối tình
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong

Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng,
Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?!

             Dẫu ta đi trọn đường trần
            Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi.
            (Et j’aurai jusqu’au bout fait mon temps sur la terre
            N’osant rien demander et n’ayant rien reçu.)        
             Đường đời lặng lẽ bước tiên
            Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình.
            (Elle ira son chemin, distraite, et sans entendre
            Ce murmure d’amour élevé sur ses pas.)

Trong toàn bài, cái không khí u uẩn, ngậm ngùi, sầu thảm được tô đậm bởi cách dùng từ rất “đắt”

            Lòng ta chôn một khối tình
           Mà người gieo thảm như hầu không hay
          Sao ta thui thủi  đêm ngày chiếc thân
          Một niềm tiết liệt đoan trinh
……
Nhịp điệu  đều đặn của thể thơ ( 2- 2- 2 … ) đột ngột bị phá vỡ  ở câu thứ ba ( 3- 3 ) như một nốt nhạc trầm chùng xuống trong cảm xúc của người đọc, rồi trở lại cho đến cuối bài.

            Lòng ta chôn một khối tình
            Tình trong giây phút mà thành thiên thâu

            Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
            Mà người gieo thảm như hầu không hay. 

              Tình tuyệt vọng
            
Nỗi lòng kín chẳng ai hay
            Mối duyên ấp ủ từ ngày gặp nhau
            Gặp nhau một khắc tưởng đâu
            Khối tình như đã kết sâu ngàn đời!
            Nghiệp nầy khôn thoát được rồi:
            Một mình mình biết, ngỏ lời cùng ai?
            Mà ai cũng chẳng đoái hoài,
            Vì ai, ai thấu nỗi ai đau lòng!
            Tưởng rằng gần gụi chốc mòng
            Vẫn trong gang tấc , mà lòng cô liêu …
            Không xin cũng chẳng được chiều
            Chiếc thân lặng lẽ rõi theo đường đời…
            Nàng thì hiền dịu tính trời
            Thờ ơ đâu nghĩ đến lời yêu đương !
            Đi về, giữ mực đoan trang,
            Vô tình gieo lụy trên đường ái ân.
            Thơ nầy riêng tặng giai nhân,
            Mà giai nhân lại mười phân hững hờ.
            Hỏi rằng:”Người đẹp trong thơ
            Là ai thế nhỉ?” đâu ngờ là ai…

       … Một mình mình biết, ngỏ lời cùng ai?
            Mà ai cũng chẳng đoái hoài
            Vì ai, ai thấu nỗi ai đau lòng !
       … Hỏi rằng: “Người đẹp trong thơ
            Là ai thế nhỉ?” đâu ngờ là ai…

 Bản dịch của Mộng Tuyết Thất tiểu muội:

U tình 

Trong một phút ôm lòng thắc mắc,

Mối yêu đương dằng dặc khôn khuây.
Đau thương tình khó giải bày,
Người làm đau khổ có hay đâu nào.
Than ôi vẫn đìu hiu lặng lẽ,
Bên cạnh ai, ai kẻ biết cho ?
Đường trần biết đến bao giờ
Cũng chưa dám ngỏ ước mơ với tình.
Kiều diễm ấy khuôn xanh biệt đãi,
Vẻ xuân tươi ngọc nói hoa cười.
Thế mà trên bước đường đời
Hững hờ, chẳng chút đoái hoài ái ân!
Chất phong phỉ ân cần trau chuốt,
Dễ mà khi nàng đọc thơ ta
Vì nàng thi tứ đậm đà ,
Ngẩn ngơ nàng hỏi: “Nàng là ai đây?”

 (Dẫn theo Huyền Viêm , Kiến thức ngày nay số 577 20/8/2006)  

 Một không khí trầm mặc bi thương với nhiều từ cổ và thể thơ song thất lục bát!

Bản dịch của Yã Hạc và Trịnh Nguyên
HẬN TÌNH MUÔN THUỞ
Hồn tôi có một chỗ riêng,
Đời tôi, tôi giữ một phiền, đời tôi…
Tôi yêu, tôi lỡ yêu rồi…
Nhưng yêu chỉ để… thì thôi, một mình.
Gần ai, ai thấu chăng tình,
Gần ai, ai thấy bóng mình chăng ai?
Đời tôi lặng lẽ cứ trôi,
Có đâu môi hé, mong gì rồi ai…
Dầu ai, âu yếm, nhu mì
Đường ai, ai cứ bước đi hững hờ.
Ai đi, và vẫn thờ ơ,
Thở dài nhè nhẹ, bơ thờ, nghe chăng?
Giờ đây, nội trợ hoàn toàn,
Xem thơ nào biết là Nàng cho đâu.
Xem xong, nàng khẽ lắc đầu;

Bản dịch của Bình Nguyên Lộc
CHUYỆN KÍN CỦA CHÀNG ARVERS

Hồn tôi ủ kín niềm riêng,
Đời tôi bí mật ưu phiền bên trong.
Tình muôn thuở, cảm xong giây lát,
Mối đau thương muốn thoát, không mong.
Nên tôi nín lặng như không,
Ai kia gây thảm dễ hòng có hay.
Nàng chẳng thấy, gần nàng tôi bước.
Bên cạnh ai tôi lướt cô đơn,
Đến già cũng vẫn ngậm hờn
Không gan xin xỏ, được ân huệ gì?
Dẫu tánh tình nhu mì mềm mỏng,
Nàng thờ ơ bước, khổng có nghe
Tiếng lòng tôi, dậy rụt rè,
Thì thầm dưới gót nàng đè bước lên.
Đạo vợ hiền, trung trinh một mực,
Nàng xem thơ bàng bạc đời nàng.
Xem xong, ngơ ngẩn tự bàn:
“Người đâu hờ hững cho chàng khổ đau.”

 Và bản dịch tiếng Anh:

MY SECRET
My soul its secret has, my life too has its mystery,
A love eternal in a moment's space conceived;
Hopeless the evil is, I have not told its history,
And she who was the cause nor knew it nor believed.
Alas! I shall have passed close by her unperceived,
Forever at her side, and yet forever lonely,
I shall unto the end have made life's journey, only
Daring to ask for naught, and having naught received.
For her, though God has made her gentle and endearing,
She will go on her way distraught and without hearing
These murmurings of love that round her steps ascend,
Piously faithful still unto her austere duty,
Will say, when she shall read these lines full of her beauty,

"Who can this woman be?" and will not comprehend.
 Translated by Henry Wadsworth Longfellow
 (Everypoet.com)

Một bản dịch hay, vừa sát vừa thoát, phải chăng do thuận lợi là nét tương đồng giữa hai ngôn ngữ?

CÁC BÀI THƠ MÔ PHỎNG

Trong khi người đọc khắp nơi tìm cách chuyển ngữ bài thơ để giới thiệu rộng rãi hơn với công chúng thì ngay trên đất Pháp lại có một hiện tượng thú vị : hàng chục, hàng trăm bài thơ mô phỏng (pastiche) ra đời.  Tiêu biểu là bài dưới đây của LOUIS AIGOIN, thay lời người phụ nữ để đáp lại Arvers. Tác giả đã dùng lại 14 từ cuối cùng của 14 câu của bài Sonnet d’Arvers, lối pastiche này như thế gần giống với lối họa thơ của thơ Đường hay thơ Việt :

Ami, pourquoi me dire avec tant de mystère
Que l'amour éternel en votre âme conçu
Est un mal sans espoir, un secret qu'il faut taire
Et comment supposer qu'elle n'en ait rien su ?

  (Dẫn theo Huyền Viêm - Kiến thức ngày nay số 577 – 20/8/2006)
 Có những tác giả nổi tiếng nhờ khối lượng tác phẩm đồ sộ, hàng trăm tập, hàng ngàn bài. Cũng có tác giả, ngược lại, chỉ cần một bài là tên tuổi lưu mãi đời sau. Félix Arvers thuộc trường hợp này. Mà Khái Hưng, nói riêng về việc dịch thơ, cũng thuộc trường hợp này.
 

Bản dịch của Mộng Tuyết Thất tiểu muội:
            RIÊNG ĐÃ HAY RỒI
            
Nói chi những âm thầm thắc mắc
            Bạn ta ơi ! Sao chác sầu chi ?
            Nỗi lòng sao phải nín đi ?
            Lại ngờ “ai”chẳng biết gì cả đâu.
            Thôi thôi hãy chớ sầu vắng vẻ
            Tấm tình kia còn kẻ biết cho
            Xưa nay những kẻ yêu nhiều
            Chỉ là trộm nhớ thầm yêu với tình.
             Lòng đa cảm khuôn xanh phú thác
            Phải rằng ai mộc mạc vô tri
            Đường đời từ bước chân đi
            Lòng ân ái cũng lắm khi bàn hoàn.
             Thói băng tuyết ân cần giữ mực
            Đọc thơ ai cảm xúc vì ai
            Nỗi niềm riêng đã hay rồi
            Nói ra còn ngại những lời thị phi.

“Người này ai há? Ai đâu vậy cà?”
Đời tôi, tôi giữ một phiền, đời tôi … và ba câu khác bên dưới với những dấu chấm lửng … Rồi câu cuối cùng. “Người này ai há? Ai đâu vậy cà?”
 

Chừng đó đủ thấy trong dịch thuật, nhất là dịch thơ, việc trung thành tuyệt đối với văn bản gốc là điều cực khó – mà thực ra, có cần như thế ? Bản dịch dù có biến dạng ít nhiều vẫn là một tác phẩm nghệ thuật với tất cả cảm xúc và sáng tạo của người dịch.

Bản dịch của Trần Mai Châu:
            (
Thơ Pháp thế kỷ XIX, nxb Trẻ, 1996)
                Tình tuyệt vọng

            Võ vàng là lá thư hoa,
            Vô duyên là mối tình ta gửi người.
                             M.C
           
Lòng trĩu nặng một mối sầu sâu kín,
            Lỡ yêu rồi đến thác vẫn vương tơ
            Ta vô vọng nên trọn đời câm nín,
            Em vô tâm nên cứ mãi ơ hờ.
            Gần gang tấc tưởng như xa ngàn dặm,
            Núi sông nào đã dựng cảnh chia ly,
            Sống cô quạnh cho hết ngày hết tháng,
            Cầu xin chi mà mong ước được gì ?
            Cũng đành thôi! dầu đôn hậu tính trời,
            Em một dạ kinh trinh tròn bổn phận;
            Thanh thản bước trên đường, không cảm nhận
            Dưới chân mình nức nở tấm lòng ai.
            Đọc thơ ta nào biết ta tưởng vọng,
            Hỡi người đâu gây chuyện khổ đau nầy.
 

            Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng
       Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?!

Có thể nói nếu không ghi chú “  nguyên tác tiếng Pháp…. “, nhiều người không  nghĩ đây là thơ dịch, nhất là khi đọc những câu :

             Người dù ngọc nói hoa cười
Hay

            Một niềm tiết liệt đoan trinh

 “Tình tuyệt vọng” của Khái Hưng vẫn xứng đáng được nhiều yêu thích và thuộc nằm lòng từ lúc được công bố đến nay.
Sau Khái Hưng, một số tác giả khác cũng đã dịch cùng bài này, đáng chú ý là các bài dịch sau đây:

 Bản dịch của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc :

Thật ra bài thơ dịch này ban đầu không xuất hiện riêng lẻ mà nằm trong truyện ngắn TÌNH TUYỆT VỌNG của Khái Hưng. Trong truyện này người đau khổ vì yêu là thi sĩ Văn Châu, một lần đi làm phù rể cho bạn, chàng bỗng đem lòng yêu … vợ bạn! “Chàng không hiểu vì cớ gì, nhưng mới thoạt trông thấy cô dâu là chàng đã đem lòng yêu ngay, cái yêu vô nghĩa lý, nhưng nó mạnh mẽ vô chừng, tưởng như hai người vốn sẵn duyên kiếp từ đời nào, đã hẹn hò cùng nhau ở kiếp nào mà đến bây giờ mới gặp gỡ.”  Sau ngày cưới đó, ngày ngày Văn Châu vẫn đến chơi nhà bạn, “ trong lòng chôn một mối tình vô lý”. Năm năm sau, nhân một buổi tiệc đêm Noel cùng với vợ chồng người bạn và hai người khác nữa, thi sĩ mới có cơ hội thú nhận “ tôi phạm một tội nặng lắm “ mà bạn chàng hiểu ngay là tội khả ái, là ái tình tuyệt vọng ! Được bạn thông cảm an ủi “vậy thì anh cứ yêu, cứ yêu như anh đương yêu. Yêu như thế không có tội gì hết, mà người chồng dẫu có biết cũng chỉ thương anh chớ không ngờ vực anh đâu”, thi sĩ Văn Châu mới đọc cho các anh các chị nghe bài đoản thi tôi dịch của Arvers ra quốc văn.

Tên của truyện ngắn trở thành tên bài thơ. Tình tuyệt vọng – Cái nhan đề này do Khái Hưng tự đặt, một sáng tạo đầu tiên của người dịch, thứ sáng tạo được phép của người làm công việc chuyển ngữ một tác phẩm văn học, lại là một sáng tạo cần thiết trong trường hợp này bởi nguyên tác thường chỉ ghi là Sonnet d’Arvers.Có thể đây là một bài thơ thuộc loại “ Không đề “ và  nhan đề do người sau gán cho tác phẩm chứ không phải của tác giả.

Tình tuyệt vọng _ Khái Hưng đã hiểu, đã cảm, đã chia sẻ hết cả tình cả ý cả tâm trạng cả nỗi niềm của tác giả nên mới đặt thêm cái nhan đề này. Và những người dịch khác, sau Ông, (Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Trần Mai Châu…), hẳn muốn làm  khác đi nhưng cũng phải viết  lại  như thế thôi.

Dịch thơ Sonnet Pháp, Khái Hưng đã chọn thể thơ lục bát thuần Việt, bám sát nguyên tác từng khổ thơ một, chỉ phát triển hai khổ ba câu cuối thành tám câu, cho trọn bốn cặp sáu tám. Bám sát nguyên tác nhưng không hề gò ép, khiên cưỡng, vụng về theo kiểu dịch “mot à mot”, ngược lại rất nhiều câu dịch đúng và đủ ý mà không có vết tích của sự chuyển ngữ :

Điều bi thảm hơn là nỗi đau đó chừng như đeo đẳng suốt cả cuộc đời chàng trai si tình.

Đây cũng là một bản dịch hay. Và vẫn là thể thơ lục bát.
Để dịch đủ ý, Lãng Nhân phải kéo dài đến 20 câu. Khổ bốn câu đầu tiên phải chuyển thành tám câu thơ dịch. Người đọc có thể thấy thú vị khi thấy dịch giả tận dụng phép chơi chữ với đại từ phiếm chỉ “ai”, rất phong phú và sâu sắc trong tiếng Việt:  
Biện pháp vừa điệp âm vừa  điệp ngữ ở hai câu thơ cuối khép lại bài thơ đưa người đọc vào một nỗi bâng khuâng thương xót :
Khái Hưng hẳn không phải là nhà thơ, lại càng không phải là người dịch thơ nhưng bỗng dưng với bản dịch tài tình bài thơ của Arvers, Ông lại được biết đến ở một lĩnh vực khác với sự nghiệp tiểu thuyết của mình.  Nuit de Mai (Đêm tháng năm)