Thơ HẠO NHIÊN NGUYỄN TẤN ÍCH (2) Print
Tác Giả: Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích   
Thứ Tư, 07 Tháng 4 Năm 2010 00:18

Hãy thả hồn mình theo dòng thơ ngọt ngào đưa ta về với Mẹ Việt Nam bằng lời ca dao ru ngọt, nghìn đời ngấm vào trái tim khát khao tình đất Mẹ.

  

 

 

ÂN NGHĨA TÌNH ĐAU


Nợ đời một kiếp đa đoan
Xin em đừng nhắc nợ trong tình trường
Ai từng đếm giọt lệ tuôn
Sao không nhớ lúc đoạn trường đi qua
Ngậm ngùi gặm nhấm trăng xa
Người  trong hạnh phúc - ta ngoài đời nhau
Biển sâu còn biết lòng đau
Tim em vực thẳm thấu sao ân tình
Lệ ngàn đâu dễ biện minh
Đành thôi xin giữ bóng hình chân quê
Yêu nhau lạc lối đi về
Bỏ nhau quên cả lời thề sông Tương
Dặm nghìn đỉnh núi mây vương
Em đi mùa cũng dọn đường Thu sang
Chia ly rừng đổ lá vàng
Đôi vòng tay ấm ai mang đi rồi
Đông về giá buốt tim côi
Duyên xưa kỷ niệm đành thôi trả người ! 

 

 NỬA HỒN QUÊ XA 


Tháng Tư nắng Hạ vàng rưng mắt
Loáng ánh trăng liềm thấm lạnh môi
Nghe ấm đất người lòng quặn thắt
Hồn quê rạn vỡ mảnh trời đôi !
 
Phủ manh áo nửa đời lưu lạc
Dỗ giấc cô miên, nửa mộng sầu
Quê cũ vàng tay trời lửa Hạ
Gương mòn soi tóc đợi mùa ngâu
 
Tháng Tư đất Mẹ trời khô hạn
Nứt nẻ tình người khát tự do
Cây cỏ rụi mầm, chim bỏ cội
Con rời vú Mẹ chửa lần no
 
Tháng Tư ai vỗ bồn ngâm vịnh
Nào phải Trang Chu giữa ngục tù
Tin vợ lìa trần lay dộng cửa
Gọi vầng trăng vỡ khóc ma tru !
 
Người điên quên cả trời ly hận
Xé áo tung hô Ðảng xuống trần
Chân ngủ trong cùm , hồn ớn lạnh
Nhổ nghìn tóc rối hỏi cao xanh
 
Máu rựng da đầu. Tim đá tạc
Cười trên vành mắt hố quầng sâu
Nghêu ngao bài hát “đêm mơ bác”
Một chén bo bo cũng nhiệm màu !
 
Tháng Tư em khóc bên gành đá
Ðợi chị vay từng bữa gạo thưng
Cháo lỏng mỗi ngày thay sữa Mẹ
Chị làm Từ Mẫu sớm còng lưng !
 
Tháng Tư tang tóc dậy cô hồn
Ngập nỗi oan cừu thủy mộ chôn
Hương khói đàn tràng mờ biển động
Mã vàng thay lá đổ trường sơn !
 
Tháng Tư đắp nửa phần chăn lạnh
Nửa phía quê nhà, nửa quạnh xa
Em vẫn chờ người bên nửa mảnh
Chăn mòn.  Sao mãi lạnh tình ta !?       


 

 
            LS Lê Thị Công Nhân

 TIẾNG EM VANG VỌNG TRỜI XANH

“... Tôi vẫn tiếp tục đấu tranh đòi Nhân quyền Dân chủ cho VN”
Lời LS. Lê Thị Công Nhân sau khi ra tù

Ôi, tiếng em vượt trùng dương lồng lộng
Từng thanh âm vang vọng trái tim đầy
Mang hùng khí cả bầu trời chao động
Giục giã lòng người ý thức từ đây
 
Lòng Nhân ái nuôi tuổi đời khôn lớn,
Chí kiên trung thuở cắp sách đến trường,
Sinh viên, Học sinh mang hồn em vào lớp
Tư  tưởng nở hoa trong mỗi học đường  

Em sáng ngời, bình pha lê trân quý,
Đời nâng niu em ngự giữa tháp ngà.
Ta mong được là cành hoa tri kỷ,
Bên chân bình, lòng ngưỡng mộ thiết tha!
 
Em vụt dậy như ngày xưa Phù Đổng,
Cao ngang tầm một vóc dáng Anh-thư
Thế giới ngợi ca, giặc thù cúi mặt
Em ngẩng cao đầu thế đứng Hoa-Lư!

Nhận diện lại ta quãng đời đánh mất,
Ước mơ bay theo từng mỗi cánh diều
Bao khát vọng nung lòng trai chất ngất 
Bỗng tan hoang lịm chết cuối trời chiều!
 
Em đốt lửa  hàng triệu lòng ấm lại,
Toả sáng đêm đen đất nước mây mù,
Lửa khơi động mở nguồn từ đất Bắc,
Nối muôn dòng truyền mãi đến ngàn Thu!
 
Và thế đấy, em đi vào sử Việt
Ta từng trang nghiền ngẫm suốt canh tàn
Trong khoảnh khắc trái tim gầy hực lửa
Đốt thơ ta gởi theo cánh mây ngàn!


 

 

 

NHƯ NGỌN LỬA TIỀN TIÊU

Kính Tặng L.M. Tadeo Nguyễn Văn Lý

Tiếng chuông Thánh vọng từ miền đất khó
Nguyệt Biều ơi, sỏi đá vỡ luống cày!
Ðất khô cằn ươm hạt giống Tự-Do
Ðã đến lúc cây vươn mầm bật dậy!
Gió gào thét tụ quầng từ phương ấy
Lửa đấu tranh bùng cháy trên cao tầng
Tự tháp nhà thờ vào tận giáo dân
Lửa tỏa sáng cả vòm trời thế giới!
Một Moshe của kỷ nguyên ngày mới
Chống bạo quyền tàn độc tựa Pharao:
Ðốt cả Thánh Kinh, tiêu diệt tông đồ
Ngăn cấm dòng tu, chận đường truyền đạo.
 
“Như thòng lọng siết vào hầu tôn giáo”
Với nhân quyền Cộng sản tựa bằng không
Nửa thế kỷ qua uất  hận chứa ngập lòng
Dân tộc Việt mong chờ người cứu độ
Và hôm nay người đứng lên từ đó
Tadeo Nguyễn Văn Lý - Nguyệt Biều!
Ðơn độc đòi quyền hành đạo thiêng liêng
Dẫu bạo lực vây quanh chực chờ bịt miệng
Ngài biết thế nhưng ý thành tâm nguyện
Xác thân này dâng hiến cho Tự Do.
Chết cho quê hương để dân tộc ấm no
Chết vì đạo để dân còn sống đạo!
     
Bao xúc động nghe giọng Người áo não:
 “Dân tộc ngày nay tôn giáo bị bạo hành”
Mạng sống của Người hiện tại rất  mong manh
Như cây đứng chênh vênh dưới bầu trời bão tố
Hỡi con Chúa  đã chịu nhiều thống khổ
Hãy đến bên Người bảo vệ đức tin
Ðến bên Người ôm thánh giá vào tim
Chúa mãi quan phòng đàn chiên ngoan đạo
Ðừng để Nguyệt Biều cô đơn trong cơn bão
Hãy nhập dòng thành thác lũ cuốn trôi
Loài sói lang quét sạch hết  trên đời
Cho dân Việt qua đi thời khổ nạn
 
Mùa Chay năm nay gương Người tỏa sáng
Trên vùng trời nhiều Tử Ðạo Thánh Linh
Tadeo bao năm sống ngục hình
Mang Sứ điệp lời Chúa Trời rao giảng
Như Ngôn Sứ một Moshe thời đại
TADEO NGUYỄN VĂN LÝ- NGUYỆT BIỀU
Người sáng ngời như ngọn lửa tiền tiêu!

 

 

NÓI VỚI TÁC GIẢ “TIẾNG RAO ĐÊM” *

Tôi ở trong tù,
Chẳng còn nghe “tiếng rao đêm”,
Như thuở ông từng ngồi trong ngục thất.
Tù Pháp thuộc đâu thiếu phần vật chất,
Giữa tường thành còn thở được khí tự do.
Nhà tù Đảng ông rộng thẳng cánh cò,
Nơi chốn rừng hoang bạt ngàn thần chết!
Lao cải trá hình, mưu đồ tiêu dịệt,
Cửa  ngục hình hiển hiện giữa trần gian!
Vượn hú bên tai, bóng tối kinh hoàng,
Tiếng cú đêm đêm, réo hồn oan. Tố Hữu?!

Tiếng rao nhỏ của người chưa đứng tuổi,
Lanh lảnh trong đêm vọng tiếng gọi mời;
“...Mà giọng còn non qúa yếu dần hơi,
Nên cái bánh nửa chừng ra cái bén...”*

Đọc thơ ông lòng tôi nhiều cay đắng,
Thương xót cuộc đời tuổi trẻ Việt Nam,
Bé gái ngày xưa, trong sáng tâm hồn,
Dẫu hàng đêm mời người mua bánh lọc.
Bé gái ngày nay bán rao thân xác,
Vùi dập cuộc đời, đánh mất tuổi thơ!
Khuôn mặt xanh xao, vương nét dại khờ,
Trên môi mỏng dấu son mùi khổ lụy!

Bài thơ ông kêu gào đòi công lý,
Cho mọi người được bình đẳng, tự do,
Cho trẻ thơ đều áo ấm cơm no,
Và cắp sách đến trường ngày hai buổi!

Tố Hữu ơi, ngày xưa ông buồn tủi,
Trong nhà tù khi nghe tiếng rao đêm.
Ngày hôm nay đã nệm ấm chăn êm,
Ông quay mặt, bóng đêm người thất thểu!
Tràn ngập tiếng cười, chao nghiêng ly rượu,
Ngất ngưởng bên bàn tiệc cỗ đầy cao.
Mặt đỏ say men, đắc chí tự hào,
Rằng thơ ông đi vào hồn Dân- tộc...!

Vâng, chính thế, chúng trở thành thuốc độc!
Ngấm vào tim, hủy hoại triệu tâm hồn,
Ngấm vào người, nổi cuồng nộ máu tươi,
“ Giết, giết sạch, thà lầm hơn bỏ sót!”
Ông lạm dụng tinh thần yêu tổ quốc,
Kích động căm thù, lường gạt lương dân.
Ông làm thơ theo “đơn thuốc” Đảng cần,
Và xu nịnh cả tên trùm bạo ngược.
Thế hệ nào đã từng nghe ông khóc
“...Stalin, ơi hỡi Stalin
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười ..!”*
  
Tiếng thơ ông đâu đây còn văng vẳng
Tận nấm mồ, dưới đáy vực, rừng sâu
Từ biên cương  đến giới tuyến địa đầu
Hàng vạn sinh linh phải xa lìa đất Bắc!              
Ngọn bút tiền nhân kêu gào chống giặc
Giặc ngoại xâm lấn chiếm cõi bờ
Bút của ông run rẫy trước rợ Tàu
Để  Hoàng Sa vào tay quân cướp nước.

Sao thơ ông trở thành nhu nhược
Đánh mất tinh thần, khí tiết thi nhân!
Hãy theo gương Phùng Quán với Trần Dần,
Người đã dùng dao viết văn lên đá.*
Bút bị gãy, Thơ của Người còn đó,
Sáng bia danh cho hậu thế soi đời!
Và Thơ Người chan vào máu thịt tôi!

(*)Bài thơ “Tiếng Rao Đêm”, trong tập  Thơ Tố Hữu
(*) Khóc Xit-ta-lin của Tố Hữu
(*) Lời Mẹ Dặn ,Thơ Phùng Quán

 

MAI TA VỀ

Mai ta về mang theo trái tim nguyên vẹn
Trái tim Lạc Hồng rực cháy yêu thương.
Mai ta về mang theo cả mùa Xuân
Cho Mẹ, cho Em, cho Bạn bè còn đó
Những chiến hữu hy sinh từ độ nọ
Xác có còn được phủ nấm mồ xanh?!
Đói khát khổ sai  với căn bệnh bạo hành
Anh nằm xuống trong trại tù miên viễn
Anh nằm xuống sau  đêm dài cuộc chiến
Không  đạn thù, mà dấu chém lương tri!

Mai ta về mang theo được những gì,
Cho đồng đội ta vẫn còn ở lại,
Những chiến sĩ đã bao phen từng trải
Nơi biên thùy,nơi chiến lũy xa xôi
Vì Tự Do vì Nhân Phẩm con người
Anh đã mất đi một phần thân thể
Anh chấp nhận cả đời người tàn phế
Cho quê hương tan cuộc chiến bạo tàn
Mà giờ nầy ôi, cuộc sống lầm than!
Đang phủ kín lên đời anh bóng tối
Và gánh chịu bao đòn thù bỉ ổi
Bao tháng năm, bao tủi nhục chất chồng
Cơm áo nhọc nhằn nước mắt trào dâng!

Mai ta về đem theo được gì đâu,
Trĩu nặng đôi vai chuỗi ngày tỵ nạn.
Ta chạy trốn những lỗi lầm dĩ vãng
Tựa lưng người, người cúi mặt ra đi
Trách nhiệm quay lưng, biết nói năng gì
Danh dự bi thương, tim đời rướm máu.
Ta uất nghẹn giữa chiến trường bỏng cháy
Lệnh đầu hàng khi quân địch đã hàng ta
Tay súng buông rơi nước mắt chan hòa
Ta khóc một giờ, mười năm lệ đổ
Ta khóc một đời, nghìn năm thống khổ
Dân tộc điêu linh, Tổ quốc điêu tàn
Thân phận làm người ôi, Mẹ Việt Nam!

Mai ta về mang trái tim máu nóng
Chất chứa đau thương, khô đọng tủi  hờn
Mai ta phải về dù đến phút tàn hơi.
Thắp sáng lại cả quãng đời quá khứ,
Không hổ thẹn trong từng trang lịch sử
Đường ta đi tỏa hào khí ngất trời
Đường ta về xanh mạch sống Tự do!

 


TỪ ĐÓ EM YÊU

 Không là biển vẫn dạt dào cơn sóng,
Dâng ngọn triều phủ cát lạnh bờ xa
Không là trăng vẫn tỏa ánh ngọc ngà,
Soi lối mộng thuyền quay về bến đổ!
Em phong kín tựa vịnh đời chắn gió,
Đôi tay mềm ấp ủ bến bình yên.
Gởi đam mê trong ánh mắt dịu hiền,
Chút hành lý vào đời ta giong ruổi.
Tình yêu em tuôn mạch tràn suối tưới,
Vào dòng đời giữa mùa cạn lòng nông,
Cho xanh tươi mùa lúa mượt cánh đồng,
Chim ríu rít bên bông vàng trĩu hạt.
 
Vườn hạnh phúc xanh trời Nam bát ngát,
Bỗng mịt mù mây kéo phủ tang thương!
Loài quạ đen rình rập mọi nẻo đường,
Chim vỗ cánh tìm bờ xa bến lạ,
Chim chết tiếng trong lồng đời nghiệt ngã,
Tháng năm dài mong đợi những mùa Xuân..
Ta đớn đau : Em nước mắt nhọc nhằn,
Em hờn tủi : ta mồ hôi pha máu
Mồ hôi thắm tình ta thành ngọc báu,
Em sáng ngời giữa cơn lốc đại dương,
Như loài trai đá kết tủa dị thường,
Nơi biển mặn vết thương thành ngọc quý.
 
Em yêu ơi, trọn đời ta trân quí,
Hạt ngọc tình kết đọng ba lăm năm.
Nụ hôn xưa ôi, mật ngọt trong ngần,
Nghe mát rượi tim ta mùa ký ức.
Trái chín tình em đầu đời rạo rực
Thuở hẹn hò nao nức đẹp mùa trăng
Mái tóc mây che lấp nẻo cung hằng
Ta lạc lối đêm Nghê Thường Vũ Khúc.
Tháng Chạp mưa bay, tháng Mười trăng khuất,
Tuổi trăng tròn em lồng lộng vườn yêu.
Cây trái đơm bông kết nụ mỹ miều,
Ta gieo hạt em nẩy mầm hạnh phúc!
 
Tạ ơn em những chuỗi ngày cơ cực,
Lặn lội thân cò xuôi ngược miền xa.
Dấu kín thương đau, gối mỏng lệ nhòa,
Nghe muôn giọt đọng sầu trong tim vỡ.
 Thao thức vườn xưa, trăng mùa cách trở,
Căm hận đời, cắn từng hạt phân ly...!
Còn lại cho em, nào đươc những gì
Sự nghiệp tan hoang, lao tù khốn khổ
Duy một trái tim - món quà rất nhỏ,
Ta tặng Mình Ngày Cươí Ba Lăm Năm!

 


QUẢNG NGÃI QUÊ HƯƠNG ƠI!

Ta vẫn hoài mong về chốn cũ
Thăm dòng TRÀ KHÚC núi LONG ĐẦU.
 Sông giận hờn ai con sóng vỗ
Phơi bờ cát trắng quặn niềm đau!
Núi mãi chờ ai quên hý thủy
Trơ trơ mặt đá rêu phai màu
Chân cầu nước xoáy đau lòng đất
Âm hưởng nghìn năm cuộc bể dâu!
 
Ta vẫn nhớ về CỔ LŨY thôn,
Bao năm cuồn cuộn sóng mây dồn
Thuyền ai bến đợi quên mùa cá
Từng chở bao người vượt biển Đông.
 
Em có chờ ta nơi bến sông
Mùa trăng đạp nước đổ lên đồng
Đường vào MỘ ĐỨC thơm hương lúa
Máu giặc khơi nồng những chiến công!
 
Nắng ngả chiều nghiêng đợi gió về
Mây ngàn che bóng rợp sơn khê
BA TƠ một mảnh trời đơn độc
Thoáng hiện qua hồn nỗi tái tê!
 
Mẹ đợi chờ ta úa mùa dâu
Tằm chưa lên bủa, kén giăng sầu
Mẹ ơi, suốt một đời hiu quạnh
Bên chiếc giường tre, áo vải sồi!
 
Mẹ như THIÊN ẤN vươn vai đứng
Giữa trận cuồng phong nghịch cảnh đời
Ta nghe gió gọi trên đầu sóng
Tuyết ngập hồn ai ở cuối trời!
 
Ta vẫn hằng mơ ngày trở lại
Thăm giòng SÔNG VỆ đất quê em
Bờ tre xõa tóc buồn vaò hạ
Trăng rụng chân cầu gợn sóng đêm.
 
Nhớ lắm SA HUỲNH hạt muối thơm
Thuyền xa còn quyện mãi hương nồng
 BÌNH ĐÊ một quãng đời kiêu hãnh
Trận chiến năm nào dậy núi sông!
 
Ta nhớ BÌNH SA con nước dâng
BÌNH GIANG bên ấy nước chia dòng
TRA BỒNG hương quế theo mùa lũ
Về cửa SƠN TRÀ nhập biển Đông.
 
Biển tựa rừng hoa, sáng rực đèn
Đêm đầu mùa mực, hội hoa đăng
MỸ KHÊ nhộn nhịp thuyền ra biển
Mang cả niềm vui trĩu mạn thuyền!
 
NÚI BÚT còn đây, người ở đâu
Bao thiên trang sử, vạn niên sầu
LA HÀ THẠCH TRẬN còn in dấu
Mảnh đất nghèo trong tổ quốc đau!
Ta sẽ trở về QUẢNG NGÃI ơi,
Niềm đau lay động đến sao trời
Có nghe cơn khát hồn khô đắng
Núi đứng chờ người, lệ đá rơi!


           
 PHÙ VÂN

Tưởng niệm cố thi sĩ Phan Nhự Thức QN.
   
Một thuở “ Phúc Thần” còn đâu nữa
Dấu chỉ lệch đường giữa cuộc nhân gian
Theo tên Tửu Đồ rót hồn phách lạc
Cạn ly sầu chếnh choáng, giọt ly tan!
Bình rạng vỡ lời thơ tràn lên giấy
Thấm nghìn đêm ướt đẫm mộ bia chờ
Hồn tỉnh táo bút thần tung nắp đậy
Máu, mực hòa kết hạt chuỗi bơ vơ!
Quê hương ấy, đất cằn măng vẫn mọc
Nguyện thân che đi hết nửa phần đời
Dẫu phận số nạy tre còi bật gốc
Lá ủ mùn tinh dưỡng đất phân tươi.
Gươm định mệnh chém ngang mày thôi thúc
Dấu ấn treo xóa nợ sổ Nam Tào
Chút vương lụy cõi hồng hoang trần tục
Những ân tình, nghĩa nặng, nợ gươm trao!
Măng vụt lớn giữa rừng tre khô cỗi
Màu xanh tươi, nứt cánh mọc thơ Người
Hương tỏa rạng ngời lên trời Xuân mới
Má hồng hây, con lớn thổi, góc đời.
Nhớ về Cha, chớ quên đời Mẹ khóc
Bao nghìn đêm nước mắt tứơi dậy mồ
Ngấm tận đất sầu, một thời khổ nhọc
Ngửa nghiêng hồn, huyệt lạnh, chết trăng khô!
Xác thân tục bón lời thơ phát thệ
Mở hồn con nối nghiệp dĩ vào đời
Buổi thơ ta giao tình trang cổ sử,
Hài cốt sau hóa thạch. Một kiếp người!