Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975? Print
Tác Giả: Phạm Trần / Hoàng Việt   
Thứ Sáu, 20 Tháng 8 Năm 2010 11:08

Ngày 30/4 được đánh dấu là ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam năm 1975.

 

Di sản cuộc chiến Việt Nam
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/av/2010/04/100429_vnwar_heritage.shtml

35 năm đã trôi qua nhưng di sản của cuộc chiến vẫn còn đó, với hàng ngàn người Mỹ và người Việt còn mất tích mà không có câu trả lời.

Hà Mi của Ban Việt Ngữ đã tới Washington để tìm hiểu thêm về một trong các di sản này.

Nhớ về một ngày 30/4

 
 Chính quyền TP Hồ Chí Minh vừa tổ chức buổi lễ long trọng vào
sáng thứ Sáu 30/4 để kỷ niệm 35 năm ngày kết thúc của
cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử
Việt Nam, thống nhất đất nước.

Đài BBC đã hỏi chuyện một số nhân chứng lịch sử, những người từng có mặt tại Sài Gòn ngày 30/4/1975.

Ông Triệu Quốc Mạnh, luật sư, từng giữ chức chỉ huy trưởng cảnh sát Sài Gòn-Gia Định:

Trước giải phóng tôi là thẩm phán dưới chế độ Sài Gòn, suốt 12 năm, từ 1963 tới 1975. Khoảng 14 ngày trước ngày 30/4, ông Dương Văn Minh ngỏ ý mời tôi nắm lực lượng cảnh sát quốc gia. Ông ấy tìm người phù hợp các tiêu chuẩn: biết luật, biết chỉ huy và trong sạch. Tôi mới nói với ổng là khi nào ông làm tổng thống, thì tôi sẽ nhận trách nhiệm này.

Tình hình lúc bấy giờ diễn biến hết sức nhanh chóng và phức tạp. Người đầu tiên trong nội các Dương Văn Minh được bổ nhiệm là tôi.

Lực lượng cảnh sát miền Nam có tiếng là ác độc, cực kỳ nguy hiểm với cách mạng, người dân cũng rất căm ghét. Nên khi có quyết định thay chỉ huy mới, thì đáp ứng nguyện vọng của nhiều người lắm. Nói thực tình khi lãnh trách nhiệm chỉ huy cảnh sát, tôi có hai ông tổng thống: Dương Văn Minh và chính bản thân tôi, nghĩa là tôi hành động theo ý tôi.

Tôi không muốn cho cảnh sát cầm súng chiến đấu nữa và ra lệnh cho họ không được nổ súng trước với lý do đó là thời gian còn đang thương thuyết. Thứ hai, tôi lập danh sách các tù chính trị và ký lệnh phóng thích hết. Thứ ba, tôi quyết định giải tán toàn bộ lực lượng cảnh sát đặc biệt, còn gọi là các F.

 
 Đảng viên CS Triệu Quốc Mạnh từng giữ
chức chỉ huy cảnh sát Sài Gòn-Gia Định

Các quyết định trên đã giúp giảm thiểu thương vong, xáo trộn, cướp bóc trong ngày cuối cùng của cuộc chiến.

Tôi gia nhập Đảng Cộng sản vào tháng 6/1966, đơn giản là vì theo tôi, để theo con đường giành độc lập thì đi với đảng lúc bấy giờ là có lợi.

Gần 10 năm sau giải phóng, khi có một bài báo do một người có chức vụ rất quan trọng viết, ông ấy mới tiết lộ tôi là người của cách mạng. Chứ còn gia đình tôi, ngay cả vợ tôi, mẹ tôi, anh chị tôi, tuyệt đối không ai biết.

Dĩ nhiên chính quyền trước Dương Văn Minh và cả ông Dương Văn Minh đều không biết điều này mà chỉ biết tôi là một thẩm phán trong sạch, có năng lực, có khả năng một ngày chỉ huy việc chuyển giao quyền lực mà chắc chắn sẽ gây ra xáo trộn rất lớn trong thành phố.

Ông Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh:

Tôi vốn là sinh viên Sài Gòn, hoạt động bí mật trong lòng thành phố, bị cơ quan cảnh sát chế độ cũ truy nã cho nên buộc phải rời Sài Gòn. Ngày 30/4/1975, tôi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, cùng các cán bộ chiến sỹ tiến vào Sài Gòn.

Khi nhân dân Việt Nam đối mặt với cuộc chiến tranh xâm lược Mỹ, đó là một cuộc chiến tranh tàn khốc nhất và phi lý nhất. Do vậy chiến thắng 30/4 là chiến thắng của cả dân tộc Việt Nam, chứ không có người Việt Nam thua, hay người Việt Nam thắng.

Chính phủ Việt Nam cố gắng làm tất cả những gì có thể để mọi người hiểu nhau hơn, hòa hợp, đoàn kết với nhau hơn nhằm phát triển đất nước.

 
 Bà Tùng có hai con trai hy sinh trong chiến
tranh
Bà Nguyễn Thanh Tùng, cựu biệt động Sài Gòn, anh hùng lực lượng vũ trang:

Lúc Tổng tấn công năm 68, biệt động Sài Gòn bị thiệt hại nhiều, bị bắt, bị giết. Tôi nhận nhiệm vụ xuống xây dựng lực lượng, bám trụ địa bàn quận 9, phân nửa quận 1 và phân nửa quận tư, ven sông Bạch Đằng.

Năm 75, chúng tôi chờ lệnh chốt ở địa bàn, chuẩn bị sẵn sàng cho chiến dịch như lương thực, hậu cần, cả y tế nữa vì rút kinh nghiệm năm Mậu Thân thương vong rất nhiều.

Sáng 30/4, chín giờ kém 15 tổ vũ trang của biệt động chúng tôi cắm cờ ở tòa hành chánh.

Tôi có hai đứa con trai, hy sinh tháng 2/1975. Chiến tranh như vậy, nếu mình không hy sinh thì ai hy sinh cho mình? Gia đình mình chỉ đóng góp một phần nhỏ bé thôi, nhưng cũng an ủi được phần nào khi cả nước giành chiến thắng.

Tôi nghĩ là nhân dân Việt Nam bây giờ muốn hòa hợp, đoàn kết lắm. Bàn tay có năm ngón mới kết thành bàn tay, hai bàn tay mười ngón, kết lại thành vòng tay. Anh chị em nào quý mến dân tộc Việt Nam thì xin mời siết chặt vòng tay lại.

Ông Hoàng Văn Cường, nhà báo từng làm việc cho hãng thông tấn UPI của Hoa Kỳ:

Sáng 30/4, từ rất sớm tôi có mặt ở quốc lộ 1. Đến ngay ngã ba Vũng Tàu - Biên Hòa, tôi gặp một đoàn xe tăng T54 của Nga và linh cảm bảo tôi đó là đoàn tăng của Việt Cộng.

Tôi vội vàng bỏ hết các quân trang mà tình cờ có trên người, chỉ đeo máy hình để đón chiếc xe tăng đầu tiên. Tôi trở thành người chỉ đường bất đắc dĩ vì họ không biết đường trong thành phố. Ngay cả quãng đường từ Ngã tư Hàng Xanh vào Dinh Tổng thống họ cũng không biết nên tôi đi theo xe tăng 390 để chỉ đường cho họ.

Thực ra tôi đã từng gặp bộ đội Bắc Việt rồi nên không quá bỡ ngỡ. Năm 1972, tôi đã được đưa vào mật khu Hố Bò để tiếp xúc với bộ đội trong đó, xem họ sinh hoạt khó khăn vất vả như thế nào để chụp hình và viết bài.

Tháng Tư 1975, các phóng viên làm cho báo chí nước ngoài và người nước ngoài lần lượt đi nhiều, nhưng tôi quyết định ở lại vì nghĩ rằng mình là người Việt Nam.

Chiến tranh sắp chấm dứt, tôi phải có quyền ở lại, có quyền hưởng độc lập tự do.

Những năm đầu sau chiến tranh, tất nhiên tôi cũng gặp nhiều sự nghi ngờ, đố kỵ vì tôi làm cho hãng của Mỹ. Cải tạo thì chưa phải đi, nhưng mà cũng khổ lắm

Những giây phút trước lúc Sài Gòn thất thủ 35 năm trước

35 năm trước đây, sự hiện diện của người Mỹ tại miền Nam Việt Nam kết thúc khi một chiếc máy bay Trực thăng đem theo người di tản rời khỏi sân thượng của Tòa Đại sứ Mỹ tại Sai Gòn. Wayne Corey. Steve Thompson và Phạm Trần, người mà chúng tôi vẫn gọi bằng cái tên ngắn là PT là những Thông tín viên của Đài VOA có mặt ở Sài Gòn trong những ngày đó. Wayne Corey đã nghỉ hưu, nhưng Phạm Trần thì vẫn đang làm việc với chúng tôi và hôm nay họ nói chuyện với Thông tín viên Đài VOA Neil Currie.
Neil CurrieThứ Sáu, 30 tháng 4 2010

 
 Người dân Sài Gòn hoảng loạn
tìm cách leo vào Tòa đại sứ Mỹ
(hình chụp ngày 29/4/1975)

Hình: ASSOCIATED PRESS

Cựu Thông tín viên Wayne Corey nói rằng anh ta đã ngỡ ngàng khi biết lực lượng của Quân đội Cộng sản miền Bắc tràn ngập Sài Gòn mà anh vẫn còn kẹt trong thành phố. Anh ta và đồng nghiệp Steve Thompson không biết khi nào thì họ được di tản.

Trong cuộc phỏng vấn của Neil Currie, Thông tín viên Phạm Trần đã mô tả về tâm trạng bất ổn của ông trong những giờ phút sau cùng trước khi Quân đội miền Bắc tràn vào Sài Gòn.

Phạm Trần kể lại rằng, trong thời gian này, tất cả nhân viên của Văn phòng VOA ở Sài Gòn lúc đó và gia đình họ phải tập trung về một địa điểm để chờ được di tản vì họ không thể nào đến được Văn phòng ở trung tâm thành phố.

Nhưng, theo Nhà báo Phạm Trần thì mọi người đã chờ mỏi mắt mà không thấy có chiếc máy bay trực thăng nào của Tòa Đại sứ chỉ định đến bốc họ đi.

Cả Weyne Corey và Phạm Trần đều cho biết cảm tưởng của họ về Việt Nam ngày nay và liệu họ có muốn trở lại Việt Nam không.

Currie: PT, anh có thể cho tôi biết việc gì trong ngày cuối cùng đó đã mãi mãi ghi lại trong ký ức của anh?

Phạm Trần: Tôi nhớ là trong ngày cuối cùng đó, chúng tôi đều bị hỗn lọan tinh thần bởi vì chúng tôi không biết phải làm gì. Chúng tôi không thể đến Văn phòng để làm việc. Tôi được biết lúc đó, các tình báo viên Cộng sản đã có mặt ở khắp nơi trong thành phố, vì vậy mà mọi người chúng tôi, Wayne Corey, Steve Thompson và gia đình tôi phải tập trung tại một Tòa nhà để chờ máy bay Trực thăng đến đón ra Phi trường. Nhưng chuyện này đã không xẩy ra. Sau cùng thì gia đình tôi cũng đã thóat đi được.

Currie: Wayne, còn anh thì nhớ gì về cái đêm hôm đó?

Corey: Nhiều thứ lắm. Vào xế chiều hôm đó thì tôi nghe được tiếng đạn đại bác của quân Bắc việt bắn vào Phi trường nhưng việc di tản người Việt vẫn tiếp tục. Cuối cùng thì Phạm Trần, cô thứ ký Mỹ Bình và gia đình họ đã đi được và đây chính là mối quan tâm hàng đầu của tôi lúc đó.

Như vậy là chỉ còn tôi và Steve Thompson bị kẹt lại, nhưng chúng tôi không rõ là liệu có còn Thống tín viên nào như chúng tôi được di tản không. Đó là điếu tôi lo lắng. Nhưng tôi cũng rất thực tế. Tôi vẫn còn chút Rượu Cognac và tôi cứ ngồi ở đó để uống. Nếu họ tới mà họ bắn tôi thì tôi cũng đành chịu. Đó là điều lảng vảng trong đầu tôi khi ấy, nhưng tôi cũng suy nghĩ về ý nghĩa của sự kiện nếu miền Nam Việt Nam thất thủ, tiếp theo sau sự thất thủ của Nam Vang (Cao Miên) và sự đổ vỡ của một nền hòa bình giả tạo nơi cửa miệng.

Cái ý nghĩ này cứ quay cuồng trong đấu tôi cho đến khi chúng tôi được máy bay trực thăng di tản khỏi sân thượng của Tòa Đại sứ...và khi ở trên nóc Tòa Đại sứ nhìn xuống thành phố Sài Gòn thì tôi nghĩ rằng,nếu cuộc chiến phải kết thúc như thế này thì nó sẽ theo đuổi chúng ta một thời gian rất dài.

Currie: Tôi cũng nghĩ như thế...nhưng các anh có liên lạc gì với những người còn hị kẹt lại ở Sài Gòn không?

Phạm Trần: “Tôi vẫn có những liên lạc với những bạn đồng nghiệp cũ của tôi từng làm việc cho các Báo Ngọai quốc trong thời gian chiến tranh cũng như làm việc cho các báo Việt Nam, nhưng họ không còn được hành nghề như xưa nữa bởi vì sống dưới chế độ Cộng sản thì họ gặp rất nhiều khó khăn.”

Currie: Vậy cuộc sống của họ bây giờ ra sao?

Phạm Trần: “Họ là những người dân bình thường những người khác và họ phải cố gắng tối đa để tồn tại. Rất khó cho những người cựu Phóng viên như họ có thể tìm được việc làm với Nhà nước nhưng tôi nghĩ là họ phải tìm mọi cách để sống còn.”

Currie: Người dân Sài Gòn bây giờ họ gọi tên thành phố đã được đổi tên là gì? Họ có gọi là Thành phố Hồ Chí Minh không? 

Phạm Trần: "À. Người ta vẫn gọi là Sài Gòn. Tên Hồ Chí Minh chỉ có trên giấy tờ mà thôi. Trong thực tế thì mọi người vẫn dùng tên Sài Gòn. Ngay cả những người Cộng sản cũng gọi là Sài Gòn. Bởi vì Sài Gòn là một thành phố biểu tượng cho tự do, một thành phố trù phú và Sài Gòn là Thành phố thương mại và kinh tế trù phú của cả nước Việt Nam bây giờ."

Currie: Wayne, anh vừa nói là sự kết thúc chiến tranh ở Việt Nam như đã xẩy ra sẽ theo đuổi chúng ta lâu dài. Và sau đó thì cứ mỗi khi Hoa Kỳ tham chiến ở đâu đó thì hình ảnh Việt Nam lại hiện ra, nhưng anh có nghĩ rằng chuyện đó chỉ có thể đã xẩy ra trong thời gian ấy và chỉ ở đó mà thôi không?

Corey: “Tôi nghĩ rằng lối kết thúc chiến tranh Việt Nam như đã xẩy ra là một thất bại ngọai giao rất lớn của Hoa Kỳ. Thật sự thì các họat động quân sự của Hoa Kỳ đã kết thúc từ năm 1973, hai năm trước khi cuộc chiến chấm dứt. Người ta vẫn thường nhắc đến tình hình hỏang hốt và các cuộc di tản hỗn lọai đã xẩy ra kéo theo cuộc đầu hàng cùa Quân đội miền Nam trước cuộc tấn công của quân Cộng sản miến Bắc khi mà lúc đó Hoa Kỳ không còn can dự vào cuộc chiến nữa.

Nhưng sự thật là lần đầu tiên Hoa Kỳ đã thất bại, một thất bại lớn lao. Do đó mỗi khi có hành động quân sự nào đó, chẳng hạn như cuộc chiến tranh ở Afghanistan thì tôi lại thấy có những lo ngại có thể lại xẩy ra một Việt Nam thứ hai. Những chuyện như lãnh đạo của Afghanistan tham nhũng, hay liệu chính sách Quân sự của chúng ta ở đó có đúng không đã được đặt ra. Và tôi nghĩ những vấn đế của cuộc chiến tranh Việt Nam chưa dừng lại ở đây mà sẽ được nhắc lại ở bất cứ nơi nào chúng ta tham chiến."

Currie: Câu hỏi sau cùng của tôi với hai bạn: Đã 35 năm kể từ khi các anh rời Việt Nam, các anh có nghĩ sẽ trở lại Việt Nam không?

Phạm Trần: “Tôi hy vọng như thế, nhưng ngay bây giờ thì không bởi vì Việt Nam vẫn còn là một nước Cộng sản. Họ biết tôi rất rõ và tôi cũng đã biết họ rất rõ. Tôi có nhiều bạn cũ hiện đang làm việc trong Chính phủ. Tôi không sợ bị bắt nếu trở về, nhưng ngay bây giờ thì tôi không có ý định quay về.”

Corey: "Như anh đã biết là vợ tôi là người Việt Nam. Chúng tôi có 2 con, khi ra đi chúng còn rất nhỏ nhưng bây giờ đã khôn lớn và hai con tôi, vợ tôi và cả các em của vợ tôi cũng đã về thăm Việt Nam. Nhiều người ngọai quốc cũng đã đến thăm Việt Nam. Ngay cả một số Nhà báo từng làm việc ở Sàigòn trong thời gian chiến tranh cũng đã trở lại thăm Nam Vang (Cao Miên) và Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày kết thúc chiến tranh. Có thể họ không đồng ý với tất cả những gì của Ủy ban Nhân dân thành phồ Hồ Chí Minh đang làm nhưng tôi không thấy họ gặp phải khó khăn gì. Tôi không thấy có vấn đề gì đối với người ngọai quốc khi đến thăm Việt Nam. Ngay cả đối với những ngưởi Việt Nam được gọi là “Việt Kiều” cũng vậy. Ngay cả bản thân tôi cũng đã trở lại thăm Việt Nam vào năm 1995. Tôi thấy đã có sự thay đổi khả quan về mặt kinh tế, nhưng nếu hỏi là tôi có muốn trở lại làm việc hay ở lại Việt Nam không thì tôi không có ý định đó.”

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy & Linh Mục Cao văn Luận:

Bí Ẩn 30.4.1975 

1) Mở đầu

 Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy - một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.

 Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.

 2) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

 Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung... cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

 Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế.

 Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.

 - Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.

 - Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.

 Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm"!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.

 Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( - World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.

 Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam.Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).

 Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.

 3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?

 a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ

Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.

Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan)

Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:

 - trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!).

- trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton...

- trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.

- trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.

- trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.

- trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.

 Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh...

 Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.

 Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm . Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy ( Pháp ) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông . Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ .

 b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?

 Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.

 Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... , nhưng luôn luôn "sống chết" hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.

 Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

 c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.

 Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.

 Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác .

Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam!

Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh.

 Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 - 1999)... Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.

 Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam.

Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:

"Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất".Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là:

“ Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ”.

 Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.

Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.

4) Kết luận

Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.

 Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái ( Anti-Semitism ) . Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt.

 Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả ( thí dụ : Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam ( chịu thua ! ) vì đang câu con cá to hơn ( “has bigger fish to fry” ) . Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh .

Về phía Cộng Sản Bắc Việt , ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh " nướng quân" hàng loạt trên chiến trường ( theo nhận xét của Tướng Westmoreland ! ) , họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng " Đồng Minh tháo chạy " ( từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH . Thực tế , nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.

 Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái ( một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh " Về miền đất hứa / Exodus " của tác giả Leon Uris ) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm " Bài học Israel ( Do Thái ) " . Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.

 Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay !