Sau năm 1975: những chặng đường đã đi qua Print
Tác Giả: Nguyễn tấn Hợi   
Thứ Hai, 19 Tháng 7 Năm 2010 21:58

            Ngày 16 tháng 4 năm 1975 phòng tuyến Phan Rang thất thủ.

 

 
Ðơn vị tôi là Ðại đội 4, Tiểu đoàn 248 ÐP lúc đó đang nằm tiền đồn tại cầu Ðá Chẹt, là ranh giới giữa hai tỉnh Ninh và Bình Thuận đã di tản chiến thuật và được tàu Hải Quân vớt tại vịnh Cà Ná trong đêm và chở tới Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp Phước Tuy.

            Ngày 20 tháng 4 năm 1975, các tiểu đoàn Ðia Phương từ Phan Thiết di tản vào Vũng Tàu và thành lập Trung Ðoàn Bình Thuận. Ðơn vị tôi và Ðại đội 948 ÐP của Ðại Uý Mai Xuân Cúc lúc đó tăng phái cho TQLC giữ cầu Cỏ May trên QL15, được lệnh về Vũng Tàu cùng với Trung Ðoàn Bình Thuận bảo vệ thành phố và các quận lân cận, vì Sư đoàn 18 BB đã rút về bảo vệ Biên Hòa và căn cứ Long Bình.

            Trưa 30 tháng 4 năm 1975 QLVNCH tan rã theo lệnh đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh. Hầu hết anh em Bình Thuận chạy về Sài Gòn hay Phan Thiết. Số còn lại gồm có tôi (trung uý Nguyễn Tấn Hợi), Ðại Uý Mai Xuân Cúc (ÐÐT/948 ÐP), Ðại Uý Nguyễn Văn Hạnh (TÐ Phó TÐ249/ÐP), Ðại Uý Huỳnh Văn Hoàng (TÐT Tiểu Ðoàn 202 ÐP), Ðại Uý Trần Ðăng Thiệt (TÐP /TD202 ÐP), Ðại Uý Nguyễn Ðình Thụy (Thanh Tra Tiểu Khu Bình Thuận) .. đã bị VC tập trung cùng với số sĩ quan các đơn vị tại ngả sáu bến xe Vũng Tàu. Sau đó vào buổi chiều cùng ngày, chúng dùng xe Molotova chở chúng tôi về Long Khánh qua Liên Tỉnh Lộ 2 : Vũng Tàu, Long Ðiền, Ðức Thạnh, Xuyên Mộc, Ðất Ðỏ, Long Giao, Tân Phong, Xuân Lộc.

            Trong trại tập trung tù binh của quân khu 7, hậu cứ của Trung Ðoàn 43/SÐ18BB, ngoài một số ít của Tiểu Khu Bình Thuận, hầu hết đều thuộc Sư Ðoàn 5 BB trong đó có : Ðại Tá Trần Văn Thoàng (Tư Lệnh Phó SÐ5BB), Ðại Tá Từ Vấn (Tham Mưu Trưởng SÐ5BB), Ðại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng (Trung Ðoàn Trưởng TrÐ8/SÐ5BB), Ðại Uý Viên (Chánh Văn Phòng của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ), Ðại Uý Bùi Ðình Thi Ðại Ðội Trưởng ÐÐ Trinh Sát của TrÐ7/SÐ5BB, kẻ phản bội làm tay sai cho VC, đã bị Mỹ trục xuất)..

            1- Khúc Quanh Cuộc Ðời :

            Xe chạy chầm chậm lại rồi ngừng hẳn, ngồi trong thùng xe bịt bùng nghe tiếng quát tháo, tiếng chân chạy thình thịch, cộng thêm tiếng kêu lẻng kẻng như là sợi dây xích sắt đang kéo mọi người ngồi trong xe, im lặng gần như nín thở. Tất cả mọi người đều mang chung một tâm trạng lo âu, hiện rõ trên nét mặt.. Ðang suy nghĩ miên man, bổng nghe tiếng quát tháo dữ dằn giọng bắc kỳ rặt “ xuống xe khẩn trương “ .

            Theo lệnh trên, từng toán từng toán xuống xe được lùa vào những căn nhà tiền chế. Trước đây tôi không hề để ý lời ca của một bài hát “ từng bước từng bước thầm, không phải là hoa mà là những còng hoa được cài trên tay hay chân “ lúc đó nhớ lại mới thật thấm thía.

            - TRẠI TÙ QUÂN KHU 7 LONG KHÁNH : Tôi không biết trong tỉnh Long Khánh có bao nhiêu trại tù quân nhưng nơi chúng tôi đang đến là hậu cứ của Trung Ðoàn 43/Sư đoàn 18 bộ binh. Ðó là buổi chiều ngày 30/4/1975. Trại có độ 10 căn nhà tiền chế. Sau khi xuống xe, nhiều tên cán binh cộng sản bắc lẫn nam, chỉa súng lùa anh em vào căn nhà đầu tiên chứa chừng 50 người, bắt ngồi thành hai hàng dọc. Lúc đó chúng tôi ai nấy chỉ có mỗi một bộ đồ đang mặc trên mình. Rồi cánh cửa đóng sầm, để lại trong căn nhà một không khí âm u tĩnh mịch, cộng thêm những nổi lòng nặng trĩu đau thương khi nghĩ tới thân phận của những người lính VNCH ngã ngựa.

            Chúng tôi giờ như “ cá đã vào rọ “ . Lúc đó trời sắp nhá nhem tối nhưng không khí trong căn nhà kín mái tôle vẫn còn nóng bức. Giữa lúc mọi người sắp nổi điên thì cánh cửa mở, có một tên cán binh cầm súng AK chỉa thẳng vào phòng và một tên khác cầm một chiếc máy radio đặt ngay giữa cửa. Máy phát lại tiếng nói của tổng thống Dưương Văn Minh, đọc lệnh bắt QLVNCH buông súng đầu hàng vào lúc trưa 30/4/1975. Sụ sụp đổ của một chế độ đi vào mênh mông.

             Ðói và khát hình như biến mất, đầu óc trống rổng, suy nghĩ mông lung để rồi thiếp đi lúc nào không biết. Trong cơn mê hình như có bóng dáng ai đó, mờ mờ ảo ảo trong gió lộng mây mù trên một ngọn đồi hoang vắng, cứ tà tà theo ngọn cỏ lùa đi. Tôi vói theo chới với và cứ thế nương theo sườn đồi mà chạy theo, đến khi gặp một hàng rào kẻm gai chắn ngang, thì bóng kia đã ở bên kia hàng rào và quay lại nhìn tôi “ ồ thiếu uý Sanh , à đây là ấp Phú Ðiền quận Tuy Phong một năm trước, đã từng xảy ra một cuộc đụng độ lớn với VC khi chúng chiếm ấp “.Lúc đó Ðại đội tôi có nhiệm vụ giải tỏa ấp, tôi cho lệnh tấn công vào ban đêm để tránh sự phát giác của địch. Trung đội 1 của Thiếu Uý Sanh vào trước chiếm mục tiêu làm đầu cầu để đại đội vô và Sanh đã anh dũng hy sinh trong đêm đó . Tôi nhào tới ôm vội hình ảnh đó nhưng chỉ là giấc mơ. .

            Trong lúc đang mơ màng thì tiếng kẻng đánh liên hồi ba lần, rồi tiếng súng nổ và giọng quát tháo. Mọi người trong phòng nhỏm dậy không biết chuyện gì đã xảy ra trong từng giây phút. Không biết anh em lúc đó đang ở trạng thái nào, thức ngủ hay mê sảng như tôi nhưng nhìn ai cũng im lặng như tờ, không ai nói với ai một lời nào.

             Sáng hôm sau, từng toán 5 người được lệnh bước ra ngoài. Ði ra thì cứ đi ra, cùng lắm cũng là một kiếp người. Hóa ra thì chúng cho đi vệ sinh sát hàng rào kẻm gai. Riêng tôi thì không biết ngoài đó có nhà xí hay không, vì tôi ra ngoài chỉ để hít thở không khí cho bớt ngột ngạt. Có gì trong bụng mà đi cầu ? vì hai ngày qua chẳng có gì để ăn. Sau đó chúng lùa bọn tôi tới một sân rộng nằm giữa những căn nhà tiền chế, phân chia toán, lập danh sách họ tên cấp bậc và chức vụ, đơn vị..

            Tôi được chỉ định vào một căn nhà tiền chế nhưng đã ngăn vách nên phòng chỉ còn lại 1/3 diện tích. Mỗi người được phát một bộ quần tù màu nâu đậm có sọc trắng ngà, giống như những tù nhân Mỹ trước đây bị nhốt tại hỏa lò Hà Nội đã mặc. Tất cả nằm duới sàn xi măng lạnh không màn chiếu và thứ gì để đắp. Nhìn cái bao đựng quần áo có ghi hàng chữ bằng mực đen to nét “ nhân dân Trung quốc tặng tù binh VN “.Tôi đã đọc rất rõ nên nhớ đến hôm nay vẫn không quên được hàng chữ trên.

            Sau này được đọc những tài liệu đã giải mật, mới biết chúng tôi trở thành tù bình từ lúc còn đang cầm súng chiến đấu với giặc cộng vô thần. Nằm sát vách ngăn để ý tới động tỉnh bên kia, tôi lấy ngón tay gỏ nhẹ vào vách tole để xem có ai trả lời lại nhưng hoàn toàn im lặng. Ðến gần tối thì tôi nghe tiếng động lao xao bên kia vách tole, tính gỏ nhẹ để làm dấu hỏi nhưng lại thôi chờ xem . Sửa soạn tư thế nằm, đầu gối lên thùng đạn đại liên để mọi người đi tiểu tiện ban đêm .. đời sao mà thê thảm la

            Ðột nhiên bên kia có tiếng gỏ nhẹ, tôi gỏ lại và hỏi khẻ “ xin lỗi ai bên đó ? “.Có tiếng đáp rất nhỏ “ đại tá Từ Vấn đây “.Tôi giật mình khi biết mình đang nằm sát một vị đại tá, chỉ cách một tấm tole mỏng. Thì ra tại đây có ba vị đại tá Thoàng, Vấn, Hùng.. bị VC tập trung từ chiều 30/4/1975. Riêng đại tá Vấn rất có phong độ.

            Cơn đói giờ mới thật sự hành hạ mọi người, vì từ chiều qua tới nay ai cũng chỉ có chén khoai mì lát khô nữa chín nữa sống, dù rằng đời lính chúng tôi đói khát là chuyên thường xãy ra, nhất là những lúc đụng trận. Ghẻ lở cũng bắt đầu tấn công những thân hình đã từng dạn dày gió sương, chúng không chừa một ai, chổ nào trừ hai con mắt.

            Tôi nằm kế bên một vị bác sĩ quân y nhưng lâu quá không còn nhớ tên cấp bậc, mà chỉ nhớ tới sự giúp đở của ông qua những cơn đói triền miên, trong thời gian đầu bị nhốt ở trại tù quân thuộc khu 7. Mỗi buổi sáng, khi cửa phòng mở cho tù nhân ra ngoài giải quyết vệ sinh, tôi và vị bác sĩ đến gần hàng rào, không quên cầm theo vài tàu lá chuối và một cái nón sắt để bắt ốc sên (còn gọi ốc ma) rất to, bò gần chỗ có cầu tiêu. Rồi không biết bằng cách nào mà ông ta đem được cái nón sắt ốc xuống bếp nấu chín.

            Nhưng mọi người chung phòng không ai dám ăn, trừ tôi và ông bác sĩ. Vì ốc to quá nên tôi chỉ ăn được hai con là ớn, số còn lại được bác sĩ thanh toán hết một cách ngon lành. Nhưng những ngày hạnh phúc trên thật ngắn ngủi, vì ông bác sĩ và ba vị đại tá đã bị chuyển trại vào ngày 19/6, là thời điểm cộng sản tập trung tất cả quân cán chính VNCH vào hỏa ngục, qua cái gọi là “ trình diện học tập cải tạo “ một tháng dăm ba tuần rồi về chung sống hòa hợp, hòa giải, nối vòng tay lớn với “ cách mạng “ để làm lại cuộc đời giàu có hạnh phúc trong thiên đàng xã nghĩa như nhân dân miền Bắc được hưởng từ 1955-1975.

            Ðiều làm tôi hối tiếc nhất trong thời gian bị nhốt tại trại tù quân khu 7 , đám tù nhân được gọi ra sắp hàng ngồi chờ chụp hình, có danh số đàng hoàng y như lúc tôi mới theo học khóa sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, ngồi trên ghế cao sau lưng là tấm màn, với tư thế hai tay cầm bảng nhỏ để trước ngực, có ghi số tù. Tôi đã cố lục lọi trí nhớ nhưng không làm sao nhớ nổi số tù của mình..

            Bước ra khỏi cửa nhà tiền chế như mọi lần, bổng giật mình nhìn qua bên kia hàng rào kẻm gai, có vô số người mặc đồ dân sự vừa đi vừa cười nói rất vui vẽ. Tôi nghĩ hôm nay chắc có lễ lạc gì lớn lắm, nên dân chúng mới được lệnh vào dự. Hôm đó vào khoảng giữa tháng sáu gì đó, bởi vì không có lịch hay đồng hồ, nên không có cái gì để biết thời gian. Ðứng bên này hàng rào, len lén gọi để biết tình hình khi thấy những người bên kia ngó vào và xầm xì “ đừng nói gì với anh em tù binh, coi chừng bị kẹt “ . Có phải mình đi học tập một tháng rồi về phải không ? hay chỉ là những tiếng vọng từ cỏi u minh , bốc lên theo gió đưa đẩy đến tai người tù có số danh bạ. Thôi thì cố quên để mà sống.

            Sáng hôm đó VC cử hai anh em theo chúng ra chợ Xuân Lộc mua đồ ăn cho trại, tôi nghe có đậu hủ nấu với thịt heo. Lòi nói mơ hồ đó như vọng từ cỏi xa xăm, mà cũng có thể là lời thì thầm của cây rừng theo gió đưa về. Lòng tôi bổng xót xa cho thân phận tù đầy dù chỉ trong khoảnh khắc. Một tháng rưởi bị nhốt trong trại tù quân khu 7, chúng tôi đã nếm được mùi qua cái gọi là “ sự khoan hồng của cách mạng “ bằng những bài học nhồi sọ vở lòng từ báo chí VC do một tên chính trị viên đọc vào mỗi buổi sáng “ các anh không biết đọc chử in, thành ra chúng tôi đã mất nhiều thì giờ để đọc báo cho các anh nghe. Kể từ ngày mai các anh phải đi học “.

            Ðó là lời tuyên bố của một tên chính trị viên hay chính ủy VC . Thế là cả bọn được khai thông cùng một quyển vở, cây bút chì bắt đầu học vở lòng abc. Lúc đó tôi cũng vừa sắp 29 tuổi, trước sự việc khôi hài có một không hai, khiến cho ai cũng ứa gan nhưng phải câm miệng vì những mũi súng đang lăm lăm nhắm vào nhả đạn.

            Lớp dạy “ chữ in “ cho sĩ quan VNCH mà ai cũng đã có ít nhất chứng chỉ tú tài phần thứ nhất, kéo dài hai tuần. Tiếp theo là khai lại lý lịch cá nhân, sau khi mọi người đã biết chữ in của Hà Nội, qua hai tuần được học vở lòng chữ quốc ngữ abc. Anh em được xếp hàng một trước cái bàn có một người tự giới thiệu là thạc sĩ, tiến sĩ gì gì đó nói tiếng Bắc, chủ tọa.

            Công việc khai báo bắt đầu tới người thứ 5 thì xãy ra biến cố với tiếng quát và đập bàn : “ giờ này mà còn dám khai báo dối trá, không thành thật ? “.Thì ra tới phiên các anh Nguyễn Hồng Anh, Trần Thái Hòa, Ðổ Trọng Thận.. khai báo, đã phạm kỷ luật do trại qui định. Ðó là “ trai thì chữ lót phải là văn, còn nữ thì dùng chữ thị ..” Chứ làm gì có Hồng, Thái, Trọng.. Thật ra lúc đó mọi người cũng không biết tên chủ tọa mang cấp bậc gì, chỉ nghe đông bọn gọi hắn là đồng chí, đại diện cho các đỉnh cao trí tuệ loài khỉ khọt tại miền Bắc.
      
            Thế là bắt đầu khai báo lại.. Nguyễn văn A bác sĩ. Tên chủ tọa ngó xuống xác nhận người mới hô to “ biết chữ “, sau đó mới ghi vào giấy. Lần lượt Trần văn B kỷ sư, Ðổ văn C giáo sư, thiếu úy, trung uý.. Cuối cùng tên chủ tọa phán một câu đáng đi vào lịch sử xã hội chủ nghĩa “ tất cả đều biết CHỮ IN “ của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nên đạt tiêu chuẩn. Hết !.

            Rồi những ngày “ lên lớp “ theo đúng bài bản được thu sẳn trong máy phát. Nào là “ các anh có tôi với nhân dân, có nợ máu với cách mạng nhưng được khoan hồng, lại còn được cho học “ chữ in “ để biết chữ. Bởi vì các anh là “ sĩ quan ngụy “ dốt nát, chỉ ăn gan uống máu què..”. Thôi thì đủ thứ nên không làm sao nhớ hết. Hơn nữa từ khi vào lính tới lúc bị bắt buông súng đầu hàng, tôi chỉ là người lính chiến đấu khắp các mặt trận, văn chương chữ nghĩa không có bao nhiêu. Vì vậy mới đem hỏi một vị giáo sư nhưng chưa kịp trả lời thì ông bác sĩ nằm bên cánh đã đáp “ tiết canh đấy “.

            Một bữa có hai cán binh cầm súng hộ tống một tên cán bộ gì đó tới các phòng, muốn tìm một người giỏi toán lên làm việc tại bộ chỉ huy trại. Lựa mãi cuối cùng một sĩ quan công binh nguyên là kỷ sư xây dựng được chọn. Tới chiều anh công binh về phòng, chúng tôi đến hỏi han thì được trả lời “ Ð.M vậy mà cũng bảo cần người giỏi toán “.Sau đó cứ ngồi thờ thẩn như kẻ mất hòn, còn miệng thì lầm bầm câu nói trên, khiến cho anh em không biết ông ta đã làm gì trên đó.. đến nổi trở thành kẻ khật khờ như người cỏi khác.

            Hôm sau chắc là đã lấy lại hồn sau một đêm thanh tịnh, vị kỷ sư mới mở miệng “ có gì đâu, nó bắt tôi lên đếm cá khô từ trong một chiếc giổ đầy,sang một giỏ khác trống không, mỗi lần tay này nắm năm con, tay kia vệt một gạch trước khi quăng vào giỏ trống. Cứ thế mà làm cho tới hết cá “.Thiệt là thiên đàng xã nghĩa, không cần bình luận.

            Gần cuối tháng bảy, chúng tôi nhóm tù binh được “ biên chế “ với anh em theo lệnh trình diện học tập cải tạo một tháng rồi về. Hóa ra họ là những chiến hữu mà tôi đã nhìn thấy tháng trước ngoài vòng rào kẻm gai gần cầu tiêu.. Tất cả giờ đã trở thành cá mè một lứa, tù có danh số như chúng tôi hay đi học tập cải tạo một tháng rồi về. Rốt cục đều trở thành tù nhân của cộng sản BắcViệt, khi đã tự mình nộp mạng cho giặc.

            “ Ðừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì cộng sản làm “, câu nói bất hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khiên cho tôi người tù quân có danh số càng thêm khâm phục bội phần. Ðúng là toàn bộ quân cán cảnh VNCh đã bị cộng sản quốc tế lường gạt một cách vô liêm sĩ, bằng chiêu bài “ khoan hồng, hòa giải, thống nhất đất nước và dân tộc “.

            Sau khi trộn trấu tù có danh số và tù tự nguyện, phân chia thành đội, tổ bắt đầu cuộc sống mới mà không biết sẽ ra sao. Riêng ba vị Ðại Tá và một số sĩ quan cao cấp khác trong đó vị bác sĩ ăn ốc ma, giờ đã chuyển sang trại khác, không biết số phận của họ thế nào, khi tất cả đang ngoi ngóp lội trong địa ngục đỏ có thật nơi trần thế.
       
            Căn nhà tiền chế tôi ở nay không còn ngăn vách như trước. Vì không có thứ gì để lót nằm, nên tôi đi lượm những bao cát rồi dùng cọng kẻm kết lại thành một tấm mền, nữa đắp nữa trải. Ðây cũng là một thứ hạnh phúc hiếm hoi nơi cỏi thiên đàng xã nghĩa, không phải người tù nào cũng có được. Rồi càng hạnh phúc hơn trong khi đi quét rác nhặt được trong đống quân dụng phế thải của ta, một cái muổng, một gà mèn và một ca uống nước bằng inox. Ðây là một gia tài thật quý báu đối với những tù nhân chúng tôi, dùng thay thế cái chén đá duy nhất đã mẽ miệng vừa đựng thức ăn và nước uống hàng ngày. Ba vật dụng thân yêu này đã theo tôi suốt đoạn đường tù tội gian khổ, từ trại giam này sang trại tù khác.

            Cuộc sống của tù nhân cũng khác sinh hoạt hằng ngày ngoài đời, ngoại trừ thời gian đầu phải học nội qui, tự khai lý lịch “ kể lại tội ác “ . Ôi nhiều thứ không sao kể hết như vào rừng lấy củi để nhà bếp nấu ăn đun nước, nghe đọc những bài báo vớ vẫn, sau đó là nhìn trời hiu quạnh lúc ban đầu. Tiếp theo là học chính trị 3 bài với phần làm luận án, mới tốt nghiệp “ đại học máu “ .

            Tôi cũng xin ghi lại cái chết đầu tiên tại trại tù quân khu 7. Như thường lệ, sáng nào cũng có một số tù nhân vào tận chân núi để lấy củi. Thật sự đây là những cây gổ lớn nhỏ, đã được thợ rừng cưa sẳn chờ di chuyển. Mỗi người vác một khúc đem về trại. Dọc đường cán bộ cho dừng lại nghĩ mệt tại chỗ. Ðồng bào ở hai bên đường nhìn anh em tù với sự thương hại nhưng không dám nói ra. Chỉ huy toán tù hôm đó là một tên cán ngố gốc miền Nam, mặc một bộ đồ tây đen, mang súng colt 45. Ðang ngồi nghĩ mệt, bổng nghe tiếng lao xao phía trước, rồi súng nổ và người tù trúng đạn dựng đứng lên “ sao mày bắn tao ? “ . Tiếp theo là tiếng nổ thứ hai, thứ ba.. Tôi thấy người tù quay nữa vòng rồi té xấp xuống mặt đường, trong khi tiếng súng vẫn nổ liên tục. Chúng tôi hốt hoảng nhất là những anh em đứng gần hiện trường, đã phản ứng tự vệ bằng cách dùng khúc gổ để trước mặt che đạn.

            Như một hận thù truyền kiếp, tên cán bộ bấm băng đạn không ra và thay vào băng khác tính bằng bồi vào xác bất động trước mặt, thì một cán binh khác tay cầm khẩu AK đến vổ vai tên này, nói bằng giọng Nam “ đồng chí đã bắn chết người rồi “.Lúc đó tôi nhìn thấy hai mắt hắn đỏ như lửa, chắc tên này là một hung thần còn sót lại từ cuộc chiến.

            Sau cơn say sắt máu, hắn ra lệnh di chuyển. Xác người tù vẫn nằm úp mặt trong vũng máu lẫn nước mưa đêm qua còn đọng lại bên lề đường. Thảm thương cho kiếp tù, đến chết cũng không thèm nhìm mặt tên đồ tể sát nhân, Cũng may tên VC này bắn quá dở, nên bắn tới 7 viên đạn mà chỉ trúng một người, nếu chúng tôi thì ít nhất phải ba hay bốn anh em bị gục.

            Tìm hiểu nguyên nhân, thì ra tên đồ tể này khi thấy anh em tù ngồi xuống nghĩ mệt, mà không đứng theo lệnh hắn, nên đã nổ súng thẳng vào đám tù . Người bị bắn chết vô cớ, là thiếu uý Sơn quê Khánh Hoà còn độc thân, vào đầu tháng 8/1975. Sau khi đoàn tù về trại, đã cử hai người trở lại chổ cũ khiên xác anh Sơn về. Thật tình lúc đó tôi rất muốn được chỉ định nhưng không được toại nguyện. Theo lời kể lại của hai bạn tù ra khiên xác về thì khi họ tới nơi, thấy xác chết đã được đồng bào khiên lên chổ khô và được đắp một chiếc chiếu. Xác được chôn bên hông nhà tiền chế mà anh Sơn lúc sống đã ở. Ngôi mộ được cắm một thanh gổ hình chữ nhật không ghi tên tuổi gì hết.

            Cầu mong linh hồn anh sớm tìm về cố hương trước khi siêu thoát :

            “ nổi oan khiên, sầu ai oán
            la đà ngọn cỏ cành cây
            núi Chứa Chan, mây lơ lững
            gởi linh hồn xuôi cố quận
            thương thay một nấm xương tàn ngay trên quê hương
            hay là mang nặng một nổi buồn xa xứ..”
          
            Ðầu thu 2009
            Ngàn Năm Mây Bay

            NGUYỄN TẤN HỢI

           (Trích trong Ðặc San Ân Tình IV do UBTT/CCB/BT ấn hành 26/6/2010).