Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Di Cư 1975 Chuyện Kể của Phu Nhân Cố Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt

Chuyện Kể của Phu Nhân Cố Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt PDF Print E-mail
Tác Giả: Lưu Trùng Duơng   
Thứ Tư, 08 Tháng 4 Năm 2009 07:36

Tôi lập gia đình sớm, năm tôi 18 tuổi đã theo chồng ra Nha Trang. Trong thời
chiến, tôi cũng như bao thiếu nữ khác phải chấp nhận đời sống vợ của một chiến
binh. Chồng tôi là một sĩ quan mới ra trường năm 1962, anh đã tình nguyện vào
đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), một đội ngũ làm Cộng quân khiếp vía, đối với
Cộng quân những người chiến sĩ này là hình ảnh của tử thần, là đội binh tinh
nhuệ - đến trong âm thầm và ra đi trong lặng lẽ, để lại bao kinh hoàng và khiếp
đảm đối với chúng. Nhất là "đàn con của Bác" được nhồi sọ từ một chủ thuyết
Nga-Tàu, tràn qua dòng Bến Hải đau thương, chứng tích chia lìa Nam Bắc. Vượt
Trường Sơn mang theo cuồng vọng, đôi dép râu lê lết bằng những hình hài không
tim óc "sanh Bắc tử Nam" dẫm trên đường mòn Hồ Chí Minh ô nhục, một kẻ tội đồ
của lịch sử, của dân tộc.

Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc
dáng phong sương, thêm vào hình ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại.
Có địa danh nào thiếu dấu chân anh? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu,
Pleimer gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, Bình Giả... máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió
rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùn bất trắc, hiểm họa rình rập theo
những bước chân xâm nhập, nổi chết toa rập cùng sương lam chướng khí trực chờ !!!

Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được
đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông đại úy Nguyễn văn Khách, vị sĩ
quan này đã thành lập 5 toán nhảy, mổi toán không hơn 6 người do một sĩ quan
Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách. Tên các toán trưởng đầu tiên là anh Phan văn
Ninh, Lê kỳ Lân, Nguyễn bính Quan, Nguyễn văn Tùng và chồng tôi là Hồ đăng Nhựt.
Đại úy Nguyễn văn Khách đã chỉ huy trại này được một thời gian, ông lại được
lệnh thuyên chuyễn đi nơi khác. Sau đó thiếu tá Thơm và đại úy Xuân, anh em
thường gọi là "Xuân Thẹo" dù trên khuôn mặt của đại úy Xuân không có vết xẹo
nào! có lẽ một cái tên đặc biệt anh em đã tặng cho. Đại uý Xuân từ bên sư đoàn
Dù về, hai ông này là xử lý của trại Đằng Vân. Cho đến bây giờ, dù trải qua bao
dâu bể vẫn không thể xoáy mòn tâm trí tôi, tôi vẫn còn nhớ cảnh một trận lụt lớn
ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân
của LLĐB.

EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI
Đến năm 1965, ở tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa) có một trận chiến rất lớn đó là trận
Bình Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công
tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi.
Làm sao tôi có thể vui được, có thể an lòng được trong tâm trạng nổi lòng chinh
phụ dõi bóng chinh phu! Cứ mổi lần chàng chuẩn bị đi vào "miền gió cát", nhảy
vào giữa lòng đất địch là mổi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại? Ai
có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nổi lo âu, niềm đau đợi chờụ, sự cô
đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, Bình
Giả... đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy.
Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà lòng tơi bời
vụn nát....sợ anh về trên đôi nạn gổ, tôi nghẹn ngào nghỉ đến ngày anh trở về
"bên hòm gổ cài hoa..." chỉ nghỉ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi
rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương rì rào những đêm
tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên
chồng trở về gia đình tôi tại Sàigòn.

Sài gòn không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn
nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đã vội qua....
"Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi", Sài gòn vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê
Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra "nắng Sài gòn em đi
mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông". Trời ơi, tôi còn tâm trí nào để chìm
đắm trong những giòng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như
muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như riễu cợt, cách vài mươi
cây số đường chim, bay súng nổ đạn bay, thây người ngả qụy. Khuôn mặt diễm lệ
Sài gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa
trên thân xác loang lổ đạn bom, trên hình hài còm cỏi của Mẹ Việt Nam! Tôi làm
gì có áo lụa Hà Đông để mặc, nổi ước mơ đó đối với tôi là vô nghiã, tôi chỉ cần
có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên
vẹn hình hài nha anh, nha Hồ đăng Nhựt dấu yêu của em!

Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân, buổi chiều,
nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng. Năm đó tôi mang thai đứa
con đầu lòng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều tôi đã gặp thiếu
tá Thơm, đại úy Mai việt Triết và đại úy Xuân đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin
cho gặp chàng, các ông ấy nói: thiếm đã đến trể mất rồi, Nhựt mới vừa từ giả
chúng tôi bước ra bãi phi cơ trực thăng. Từ trong vô thức não nùng chợt ùa về
loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ: "bóng chàng đỏ tợ ráng
pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in". Cũng một buổi chiều chiến chinh năm
xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mã trắng
phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bậc bên giáp trận rực đỏ như
màu ráng cuối trời quan tái. Tôi, hôm nay đơn lẽ, nước mắt đoanh tròng đứng nhìn
theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy
cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng vòng quay cánh
quạt, lòng quặn thắt từng cơn nhìn đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc Bình
Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh...!!! Bình Giả, một
địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh......thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây
chàng sẽ hiện diện nơi đó!!! Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh kể cả tiểu
đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đã quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn
vọng về..... Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng đã hy
sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đã bị lộ, nên anh đã băng rừng vượt
suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Vãi tại Bà Rịa. Chàng đã nguyên
vẹn trở về, cám ơn thượng đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày
phép ngắn ngủi tại Sài gòn.

Đến năm 1966 các anh toán trưởng cũng lần lượt mổi người một nơi, riêng chồng
tôi vẫn ở lại đơn vị cũ. Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng trại Đằng Vân là Phan duy
Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những
toán trưởng rất trẻ là: Ngô văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn ngọc Thiệp, Trần anh Tuấn,
Nguyễn văn Biên,v.v... các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành
quân này đến cuộc hành quân khác. Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn,
Chu Lai, Khe Sanh, Huế, Điện Biên Phủ.... cường độ chiến tranh leo thang, tiếp
theo là Pleimer, trận chiến này các đội và trưởng toán đã hy sinh rất nhiều..
Trong lần tử thương này, tôi chỉ nhớ có 2 người bạn của chồng tôi là đại úy Nghi
và Nguyễn văn Bảy, anh em thường gọi là "Bảy Lùn". Trong cảnh đạn lửa trùng
điệp, nhiều phi công trực thăng của không lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới
bị nguy khốn đã bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp
tế lương thực. Nhiều chiếc đã bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc
đó có trung úy phi công trực thăng Nguyễn văn Vui, liều một phen sinh tử đem
mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực.Từ trên cao trung úy Vui bổng
thình lình "cúp" máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến
mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của
QLVNCH.

Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng, vợ của anh
Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi. Lúc này chồng
tôi đang hành quân tại Vùng Hai Chiến Thuật sắp về, tôi được tin từ Sài gòn và
ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép. Trong
lúc chờ phi cơ trở về Sàigòn, anh Nguyễn ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế
lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương.
Ôi, chinh chiến! bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh
Thiệp mới chào đời còn đỏ hỏn đã vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô
oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp
-người em rể trở về Sàigòn an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bả,
mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau
3 tháng sanh nở.

Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài gòn và đứa con thứ ba đã chào đời. Việt Cộng
đột nhập và tấn công thành phố Sài gòn, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận
Mậu Thân chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, trung úy Nguyễn văn Tùng đã tử
trận tại Tòa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến. Nữa năm sau ông Phạm
duy Tất đã thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đã phục vụ trong LLĐB
từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến
Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C.3 tại Biên Hòa. Sau đó ông Chỉ Huy
Trưởng là trung tá Phạm duy Tất đưa anh nhận chức làm trưởng trại Chí Linh ở
Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở Bình Long và Lộc
Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B.3 hành quân ở
B.15 cho đến năm 1972.

Năm 1972, khởi đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, đỉnh tận cùng của điêu linh, thẳm sâu của
tang tóc, đẩy người dân xuống cuối đáy địa ngục. Chiến trường trở nên khốc liệt
hơn, kinh khủng hơn, tàn bạo hơn....bom đạn cày nát mãnh đất quê hương nghèo
khó. Mẹ Việt Nam mở trừng mắt máu lệ đầm đià, hơi thở Mẹ Việt Nam đứt quảng từng
hồi, thân thể Mẹ Việt Nam run rẩy từng cơn, tan hoang như địa chấn, sụp đổ như
cơn đại hồng thủy.... Trước bờ vực thẳm tử sinh, người dân miền Nam từng bước
gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định mệnh. Máu và nước mắt, thây người và
khăn sô...!!!

Đến cuối 1972 LLĐB được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như: Biệt
Động Quân Biên Phòng, Nha Kỷ Thuật và các quân binh chủng khác. Anh đã chọn về
Sở Liên Lạc Nha Kỷ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm
1974.

ÁO BÀO THAY CHIẾU ANH VỀ ĐẤT
Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê
Thuộc và Kontum. Lúc này tình hình chiến sự trở nên căn thẳng, hổn loạn, phương
tiện di chuyễn vô cùng khan hiếm và khó khăn. Hai ngày ròng rã chờ đợi tại phi
trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Hòa
và đã được lên đường sau đó. Khi đến trình diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan
phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, thiếu tá
Cao triều Phát đã đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông thiếu
tá Phát bảo chồng tôi, "mầy" đã xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về
không? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc tình hình đang rối
ren vì được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị
thôi chúng mình sẽ về chung cho vui. Vì vậy, anh đã nhờ thiếu tá Phát mang tiền
lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn vài hôm sau anh
sẽ về Sài gòn.

Trên đường rút quân "triệt thoái cao nguyên", dọc theo quốc lộ sự di chuyển rất
hổn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và
đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đau binh và cướp bốc. Sáng ngày 25
tháng 3, anh điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài gòn, chỉ
còn 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc
tương phùn. Chiều cùng ngày trên đường rút quân, anh cùng thiếu tá Hải và vài sĩ
quan nữa trên xe, một trái đạn B.40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay
người tài xế cháy không còn xác, thiếu tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng
chồng tôi bị dập nát mặt nhìn không ra. Trong xe chết 3 người, còn lại 3 người
đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng.

Như thường lệ mổi sáng, từ khu cư xá gia binh của trại Nguyễn cao Vĩ trên chiếc
Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đã thấy trung úy Thọ và thượng sĩ Sanh,
hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin:
Xin chị bình tỉnh, tin chính xác báo cho biết đại úy Hồ đăng Nhựt đã tử thương
trên đường rút quân chiều hôm qua. Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập,
trước mặt tôi cảnh vật bổng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu
quái dị, mặt đất bổng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đão, tôi
ngả qụy chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào
bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lãnh xác chồng.

"Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển
linh bây giờ". Trời ơi, Hồ đăng Nhựt ơi ! Anh đã bỏ mẹ con em, anh đã bỏ lại bạn
bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngã. Tôi cùng các anh em đi
đến Nghiã Trang Quân Đội tại Biên Hòa, được một chú lính đưa tôi đi qua dãy hộc
tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một
sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp
đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn hình hài của thiếu tá Hải và thân xác chồng
tôi đang nằm bất động. Trời ơi ! "em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa
đôi hàng nến chong", thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đã bể
nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đã từng theo
chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đã từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé
nhỏ và đàn con dại mổi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch
mịch, cuối rặn sim bạt ngàn. Bây giờ "áo bào đã thay chiếu anh về đất" yêu đương
kia đã cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...!!!

ĐÁ NÁT VÀNG TAN
Vài hôm sau thành phố rất lộn xộn, trong cư xá đạn bay xối xã, lúc đó tôi nhờ em
tôi đưa 5 đứa con về nhà trước phần tôi thu xếp về sau. Chỉ có một đêm đường xá
bị giới nghiêm và thiết quân lực, tôi nóng ruột không biết các con tôi như thế
nào. Một tháng nặng nề ngột ngạt đè nặng trên đầu người dân Sài gòn...... Đến
trưa ngày 30 tháng 4, các anh em quân nhân vượt qua cổng trại cư xá Nguyễn cao
Vĩ....tôi ngơ ngác nhìn và chạy theo. Sài gòn súng nổ, Sài gòn đạn lạc tên bay,
tiếng pháo Cộng quân ầm đùm, tiếng xích sắt thô bạo nghiền nát mặt đường, giờ
phút hấp hối của Sàigòn, cơn đá nát vàng tan đã đến. Quyết một phen trống mái
ngăn chận Cộng quân xâm nhập thủ đô, trên bầu trời những chiếc phi cơ đang vầng
vũ đánh bom bảo vệ vòng đai Sàigòn, một chiếc bốc cháy chói lòa như hành tinh
lạc thể rồi nổ tung tóe, tan tành từng mảnh rơi lả chã, một chiếc khác gẫy cánh
quay như con vụ rồi chúi đầu, sau tiếng nổ từng cụm khói đen nghịch bốc lên cao.
Sài gòn bốc cháy, Sài gòn loạn lạc, Sài gòn tiếng kêu la thất đảm. Kẻm gai như
mạng nhện bủa giăng, nhiều anh em quân nhân súng lăm lăm trong tay bám chặt
chốt. Tôi thấy những người Lính Mũ Đỏ đang đau thương rũ cánh "Thiên Thần", giày
sô "shaute" còn bám chặt gót chân gió bụi mà áo trận lạc mất nơi nào? chỉ còn
tấm thân trần với những xâu lựu đạn để bảo vệ thành đô, hai tay cầm hai trái phá
đang chạy tới, chạy lui. Tôi như một cái xác phờ phạt, hồn đã thất lạc tự bao
giờ. Tôi chạy về hướng ngã tư Bảy Hiền định ghé vào nhà người chị, nhưng căn nhà
bị đổ nát tan hoang vì đạn pháo của địch quân, không biết họ đã tan thây trong
đóng gạch vụn đó hay chạy phương nào ? Tôi lại trở ra đường Nguyễn văn Thoại ,
vừa đi vừa chạy về nhà trên đường Lý Thái Tổ, năm đứa con tôi vẫn còn đang chờ.
Mẹ con chúng tôi ôm nhau òa khóc.

Chiều 30/4 người người bỏ chạy tìm tự do, người người thất lạc. Hoàn cảnh và
cuộc sống chật vật của một người vợ chiến binh, hơn nữa chàng vừa nằm xuống từ
giả cuộc chiến bi hùng này, mồ chưa khô đất và cỏ khâu chưa lên mầm. Tang chồng
vẫn nặng trỉu trên đầu tôi với cái tuổi vừa 30, lại chất thêm một cái tang cho
đất nước. Hai vai gầy gánh vác đau thương trong cảnh mẹ góa, con côi, đứa con
lớn nhất chỉ có tám tuổi và đứa nhỏ nhất mới được 18 tháng, tôi biết làm gì đây
trong thảm trạng này, trong cảnh thê lương của "Sài gòn hoang lạnh ơ thờ, môi
người goá phụ nhạt mờ màu son...." Nhựt ơi, em phải làm gì đây anh, em phải làm
gì và mẹ con em phải sống làm sao trong những ngày tháng đến ???

Cuộc đời sao lắm nổi chuân truyên, sao quá đổi đoạn trường đối với người vợ
Lính?! Tôi lại phải tiếp tục sống và phải sống dưới một lớp người mới, một thể
chế mới mà đối tượng là giai cấp, là độc tài, là hà khắc dã man. Tôi trong tâm
trạng như hóa đá, qua câu chuyện nàng Tô Thị bồng con lên tận đỉnh núi từng
chiều dõi bóng chinh nhân. Nhưng nàng Tô Thị dù sao vẫn còn nhiều hạnh phúc hơn
tôi, tôi là đối tượng của một giai cấp thống trị mới của bọn vô thần, tôi là vợ
của một sĩ quan chế độ cũ, vợ của một "ngụy quân", họ đã lên án tôi như thế.
Chồng tôi đã gục ngả trên đường rút quân, tôi đã lịm chết bao lần trước cổ quan
tài, lòng huyệt lạnh đã cách ngăn chúng đôi miền: dương-cảnh. Tôi còn gì để mà
ngóng trông như nàng Tô Thị, có còn chăng chỉ là 5 đứa con thơ dại, tôi phải tảo
tần buôn gánh, bán bưng để sống qua ngày hai buổi cháo rau...!

ĐỜI NGƯỜI NHƯ CHIẾC LÁ
Con nước xoáy trăm giòng rồi cũng về biển khơi, con người trong cảnh đời quay
quắt, ngược xuôi rồi tới lúc cũng dừng lại. Tôi được giấy bảo lãnh từ Hoa Kỳ của
em tôi và được phái đoàn phỏng vấn. Trải qua bao khó khăn về tài chánh, về mọi
mặt....nào có bình thường và dễ dàng như bao gia đình khác? cuối cùng chúng tôi
được lên đường. Hành trang mang theo một gia tài hom hem nghèo khó, cùng 5 đứa
con đã trưởng thành. Phi cơ cất cánh, tưởng rằng tuyến nước mắt tôi đã khô cạn
trong đời sống khổ nạn, tự dưng nó lăn dài trên đôi má hóp sạm đen mưa nắng,
trên khuôn mặt hóc hác tiều tụy; trong những giọt lệ đó đã hòa lẫn những vui
buồn, tôi thoát khỏi địa ngục trần gian, từ biệt "thiên đàng" Cộng Sản. Trạm
dừng chân đầu tiên tại Thái, chuyến đi lưu lại 10 ngày tại đó, rồi Tokyo, San
Francisco, và chúng tôi đã đến Kansas city đoàn tụ với người em gái thứ 5 nơi
thành phố này.

Vượt qua những khó khăn trên xứ người lúc đầu tiên, nhân tình thế sự biến đổi
theo hoàn cảnh đó là chuyện thường hằng trong bất cứ một đời sống nào. Tôi xuôi
Nam về miền Cali nắng ấm tại quận Cam, tôi đã quen với đời sống mới, gặp lại
những đồng đội của chồng tôi năm xưa. Trong một tình cờ giữa tiệc cưới con của
người bạn cũ, tôi gặp được đại tá Ngô Thế Linh do các anh em giới thiệu... Sau
đó tôi quyết định về San Jose vào tháng hai và nghe tin đại tá Ngô Thế Linh đã
từ trần. Đến tháng 3 bên Sở Liên Lạc các anh đã tổ chức ngày giổ của chồng tôi
rất trọng đại, niềm an ủi to lớn sau bao năm tháng nhục nhằn. Nước mất nhà tan,
trong cảnh đời tha phương lạ cảnh, lạ người nhưng tình đồng đội vẫn còn gắn bó,
cao qúy thay cho cái tình huynh đệ chi binh.

Những chiều ở đây mổi độ tháng tư về, tôi nhớ quê, nhớ nhà và nhớ bao chiến sĩ
đã nằm xuống cho quê hương, trong đó có Hồ đăng Nhựt -chồng của tôi, anh đã làm
xong bổn phận của người trai thời loạn. Giờ đây niềm đau bại trận luôn đeo đẳng
theo các anh -những người Lính sau cuộc xảy nghé tan đàn, các anh bị bức tử một
cách bi phẫn trong một cuộc chiến đấu oai hùng. Các anh đang trôi dạt trên xứ
người, cuộc chiến đó còn dỡ dang và đang tiếp diễn trên một chính trường không
phải bằng súng gươm, mà bằng lập trường, bằng khối óc, bằng Lý Tưởng QUỐC GIA và
DÂN TỘC. Máu các anh đã tô thắm cho màu cờ, nhưng đất nước vẫn nằm trong loài
qủy đỏ, tôi luôn hỵ vọng và tin tưởng vào các anh, những người chiến sĩ can
trường của QLVNCH.

CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI
Một chút niềm riêng về Nha Trang dấu yêu ngày tháng cũ. Nha Trang những ngày mưa
đổ đìu hiu se sắc buồn. Nhớ những ngày đơn độc trong trại gia binh, nhớ Duy Tân
con đường dọc theo bờ biển đèn ngoài khơi nhấp nháy như ngàn sao, phố đêm Nha
Trang trông huyền ảo lấm tấm như ngàn trân châu trải đều trên nét xiêm hài nhung
thẳm của giai nhân. Tất cả chìm sâu vào đáy dĩ vãng rong rêu, mổi lần hồi tưởng
lòng tôi lại rạt rào thương tủi, lòng tôi lại trào dâng bao kỷ niệm. "Tuý ngọa
sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" hình bóng chinh nhân
khi ẩn, khi hiện, nổi trôi theo từng dòng chữ, từng âm thanh đứt lià "vẵng nghe
tự đáy hồn thương tích, bao tiếng kèn truy điệu năm xưa."

Bây giờ là THÁNG BA. Bây giờ đã từ bao độ mất chàng, mất quê hương. Vâng bây giờ
là tháng 3, đã 34 năm dài, mùa Quốc Nạn, mùa đau thương phủ trùm trên "Quê Hương
Nghìn Trùng Tang Trắng". Trong một góc sâu thẳm của lòng tôi, hình ảnh cố thiếu
tá Hồ đăng Nhựt, người chồng thân yêu đã anh dũng ĐỀN XONG NỢ NƯỚC.

San Jose, Mùa Quốc Nạn.