Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Di Cư 1954 Đường Đến Tự Do (2)

Đường Đến Tự Do (2) PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyễn Văn Lục   
Thứ Ba, 21 Tháng 10 Năm 2008 09:44

Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra Hà Nội hỗ trợ cuộc di cư mà ông trù tính lên đến 2 triệu người.

Thủ tướng Ngô Đình Diệm (1954)
Nguồn: UPI—Bettmann/Corbis

 

Ngày 30/06/1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra Hà Nội để xem xét tổng quát kế hoạch rút quân đội Quốc Gia ra khỏi Bắc Việt, đồng thời giải quyết vấn đề người di cư.

Nhiều tin đồn tốt đẹp chung quanh cá nhân ông Diệm, gây thêm tin tưởng cho những người đi tìm tự do vào miền
Nam.

Hìnn ảnh ông Diệm lúc ấy được coi như bản mệnh tương lai của người di cư miền Bắc vào miền
Nam.

Cũng trong một buổi họp tại một biệt thự ở đường Hàm Long với bác sĩ Phạm Hữu Chương cùng với các sinh viên Lương Trọng Cửu, Tôn Thất Cần và Từ Uyên, thủ tướng Diệm đã nhờ bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay DC4 để chở 1200 sinh viên vào Sài gòn vào các ngày 12 và 13/08/1954 (Tài liêu của Từ Uyên)

Bắc Kỳ di cư 1954-1955

Trong số những người trẻ quyết định tương lai mình ở bên kia vĩ tuyến 17, người ta thấy những thanh niên, sinh viên như Vũ Khắc Khoan, Trần Thanh Hiệp, Vương Văn Bắc, Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo, Quách Đàm, Hoàng Cơ Long, Tạ Tỵ, Lưu Trung Khảo, Lý Quốc Sỉnh, Nguyễn Khắc Ngữ, Lữ Hồ, họa sĩ Nguyễn Cao Nguyên, Bùi Đình Nam, Tô Đồng, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần Kim Tuyến, Phạm Việt Tuyền, Mặc Đỗ, Hiếu Chân, Như Phong.

Di cư (1954)
Nguồn: Thư khố Hải quân Hoa Kỳ

 

Và những người trẻ hơn, có khi còn ngồi ghế trung học như Đỗ Quý Toàn, Lê Đình Điểu, Duyên Anh, Nhật Tiến, Vương Đức Lệ. Và hàng vạn thanh niên Nam nữ khác.

Phía quân đội có các sĩ quan trẻ cấp úy như Lê Nguyên Khang, Nguyễn Cao Kỳ, Phó Quốc Trụ, Phạm Văn Phú, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Bảo Trị, Hoàng Cơ Minh.

Tất cả đều lên đường.

Và mỗi người trẻ ấy sau này vào miền Nam mang theo họ một mảnh Hà Nội qua hội họa, thi ca, tiểu thuyết, kiến thức và âm nhạc. Không kể hơn 1000 sinh viên các trường Đại học Y, Nha Dược, khoa học, luât khoa và văn khoa.

Sài gòn giàu thêm về tài sản trí tuệ và Hà Nội nghèo đi vì thiếu họ.

Từ nay, họ có một danh xưng mới: Bắc Kỳ di cư 1954. Nhờ có giới trẻ, thanh niên trí thức Hànội mà cần nói thêm là: Bên cạnh cuốc di cư người, có môt cuộc di cư chữ nghĩa từ miền Bắc lên tầu há mồm đi vào miền
Nam. Nay thì chẳng còn biết chữ nghĩa di cư ấy, chữ nào còn, chữ nào mất.

Hà Nội đổi chủ, đổi người. Có nước mắt tiễn đưa của người ở lại và sự thương nhớ của người ra đi. Sau này, Mai Thảo viết cuốn sách rất đắt: Đêm giã từ Hà Nội để nói lên tâm tình người Hà Nội phải rũ áo ra đi .

Chợ trời Hà Nội

Thành phố Hà Nội lúc này tự nhiên có rất nhiều chợ trời bỏ túi mọc ra khắp nơi. Chỉ cần một cái bàn nhỏ hoặc một chiếc khăn trải xuống đất, thế là một cửa hàng nhỏ đã chớp nhoáng ra đời. Người bán hàng là những mệnh phụ phu nhân, vợ các quan chức thầy thợ làm cho Tây, hay các thương gia. Họ thường ăn mặc sang trọng hơn kẻ đi mua hàng. Người ta bán đủ thứ: từ những thứ kềnh càng không mang đi được như tủ chè, sập gụ đến tủ gương, giường lò xo Hồng Kông. Một loại giường chỉ dành cho giới giầu có, quyền quý của Hà Nội. Trẻ con thời đó thường hát:

Nằm giường lò xo dập dình có sướng không?

Người ta bán đủ thứ và mua đủ thứ từ đồ dùng đến quần áo, bút máy, đồng hồ, xe đạp.(xe đạp quý và đắt nhất thời đó là lọai xe bằng nhôm, goi là xe đạp đuy ra . Hay còn có lọai xe dạp hiệu Peugeot, nhập cảng từ Pháp qua.

Người ta bán đổ, bán tháo để rũ áo ra đi. Tất cả những gì không mang đi được thì buộc lòng phải bán. Các chợ trời tụ họp đông đảo trên các vỉa hè thành phố, nhất là vỉa hè đường Quang Trung bây giờ. Những người đã từng phải chạy theo chính sách tiêu thổ kháng chiến thì họ không lạ gì những chợ trời như thế mọc lên chung quanh các vùng Phát Diệm, Bùi Chu, Hà Đông, Chợ Gạo, Cống Thần. Đó là những nơi giáp ranh giữa vùng Tề và vùng Giải phóng. Những đối với dân Hà Nội hồi cư chính cống thì đây là chuyện khác thường.

Nó báo hiệu những thay đổi lớn sắp xảy ra.

Hà Nội ngày 9 tháng 10 năm 1954

Phần người Pháp, họ đã có chương trình triệt thoái binh lính Pháp ngay từ đầu tháng 6. Phần quân đội Quốc gia lần lượt được rút khỏi Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình vào đầu tháng bảy, sau đó rút khỏi Nam Định và Phủ Lý.

Ngày 9 tháng 10, ngày định mệnh cho sự ra đi vĩnh viễn của người Pháp. Đây là ngày hạn chót của cuộc triệt thoái binh đội Pháp ra khỏi Việt Nam.

Vì thế mà chiều mồng 8 tháng Mười, một hạ sĩ người Pháp trong bộ binh phục đẹp nhất từ từ kéo lá cờ Pháp xuống, gấp lại và hôn nó một cách kính cẩn. Cực kỳ đơn giản, nhưng cũng đầy trang nghiêm. Một điệu nhạc buồn bã được tấu lên. Sự im lặng trải rộng. Một cơn dông từ đâu đến, gió thổi mạnh. Gió cộng với mưa tạt ào ào xuống sân đá banh Mangin - một sân vận động nghèo nàn với đường chạy đua bằng đất nhão nhoẹt, chỉ còn trơ lại cái cột cờ ở giữa sân. Có tiếng hô vang các khẩu lệnh nhà binh, chừng ba trăm người lính, súng trên tay làm theo lệnh.

Vẫn bóng tướng Cogny ở đó, chững chạc, uy nghi. Dù trong thế của người bại trận, ông vẫn muốn thể hiện phong cách của một tay sĩ quan nhà nghề. Không ai có thể suy đoán được ông đang nghĩ gì. Có thể ông nhớ lại cái ngày 25 tháng 4 năm 1954, ông nhận được một Nghị định thông qua Bộ trưởng Chiến tranh P. De Chevigné với đầy đủ danh sách các đơn vị, các tiểu đoàn trú đóng ở Điện Biên Phủ được vinh danh (1). Cái nghị định đó đến không đúng lúc. Quân đội dưới quyền ông kể như thua trận rồi.

Những bằng khen, những huân chương đó làm sao cứu vãn được tình thế? Ông cần thêm binh lính, cần thêm viện trợ súng ống thì không được.

Nghĩ tới đó, ông không khỏi ngao ngán.

Vậy mà hôm nay, ông phải cử hành cái nghi thức cuối cùng của đời binh nghiệp, đại diện cho gần 600 ngàn đồng đội của ông, những chiến binh đủ loại: Tây trắng, Tây Lê Dương, Tây rạch mặt, lính Bảo An Đoàn và toàn thể các binh chủng khác của Việt Nam. (Vào năm 1889, chỉ có khoảng 500 người Pháp sống ở Hà Nội. Đến năm 1908, con số lên đến 4000, Họ sống tập trung chung quanh cổ thành. Người ta nhận thấy một số lính trong binh đoàn số 3, binh đoàn đã thảm bại trong trận chiến Cao Bằng vào những năm 1950 gồm những binh sĩ đầy can đảm đã cố thủ cứ điểm có cái tên con gái rất đẹp là Isabelle đến phút cuối cùng. (2)

Thật ra cuộc chiến trong bốn năm đầu còn trong vòng tay của người Pháp, khi mà người Việt Minh chưa được trang bị, chưa có nổi một khẩu súng. Súng của họ, đạn của họ được cung cấp và nuôi dưỡng từ những cuộc đánh úp, công đồn. Khi mà đại tướng De Lattre chết vì ung thư vào trung tuần tháng 2 năm 1952, lúc mà trận chiến Hoà Bình còn đang tiếp diễn, số phận binh đội Pháp đã hầu như được quyết định rồi. Bảo Đại đã cay đắng viết: Sau cái chết của Đại tướng De Lattre, tôi có cảm tưởng hòa bình chỉ là một hy vọng hão huyền (5). Chính phủ Pháp ở Paris, bộ tham mưu, tướng lãnh Pháp (6) tiếp tục cuộc phiêu lưu ở Việt Nam mà thực sự bị động không biết phải tiến lui làm sao.

Chỉ còn một cách là kéo dài nó, đến đâu hay đến đó, tiến dần đến chỗ thảm bại.

Lời bào chữa nào cũng vô ích. Đối với người Pháp thì họ phải thừa nhận rằng: Không có cứ điểm nào có thể cầm cự mãi được mà không bị mất, nếu nó thiếu sự yểm trợ từ bên ngoài. Về chiến thuật, họ đã tự chọn một cái lòng chảo để chôn mình vì ở cách xa cơ sở tiếp vận chính là Hà Nội 300 cây số và cách xa phi trường Uông Bí 400 cây số.

Nhưng cái việc mà Cogny phải làm là đã ký những sự vụ lệnh truyền cho tất cả các công chức người Việt phải rời bỏ Hà Nội đi vào Nam, mọi phí tổn sẽ do nước Pháp và đồng minh của họ đài thọ. Hạm đội thứ bảy của Mỹ sẽ cung cấp máy bay và tàu thủy, thay vì dùng cho nhu cầu chiến tranh, nay dùng để chuyên chở những người di cư vào miền Nam đúng như tinh thần của bản tuyên cáo do tổng thống Eisenhower đã tuyên bố ngày 30 tháng 6 năm 1954 qua thông tấn xã AFP: Nếu có hiệp định đình chiến thì Mỹ có một cuộc di tản để đưa dân miền Bắc vào Nam.

Và điều đó đã xảy ra rất trật tự sau này. Di cư và di tản khác nhau ở chỗ này. 54-54 khác 75 ở chỗ này.

Bốn giờ sáng ngày 9 tháng 10 năm 1954 (3), Hà Nội đổi chủ

Đoàn lính Pháp trên những xe nhà binh chậm rãi nối đuôi nhau như một đàn rắn khổng lồ tiến về phía Bắc thành phố, hướng cầu P. Doumer. Kẻ ra, người vào. Tướng Cogny đứng đằng sau một chiếc xe Jeep bỏ mui giơ tay vẫy chào đám dân chúng hiếu kỳ bên đường. Ông duyệt một đám quân lính Lê Dương, ăn mặc chỉnh tề, huy chương, mề đai đeo đầy người. Không ai bảo đó là một đoàn binh thua trận. Hình như họ muốn dành cho ông một cái vinh dự chót của người làm tướng. Người ta nói rằng khi đến Hải Phòng, ông đã thỉnh cầu giám mục Hải Phòng cho kéo chuông nhà thờ Chính tòa để đón tiếp đoàn quân Pháp trên đường về nước. Chẳng hiểu ông có đòi hỏi giám mục phải kéo chuông Te Deum (Kinh tạ ơn) hay là De Profundis (Kinh cầu hồn) hay không?

Quân Việt Minh qua cầu Doumer vào Hà Nội (14/10/1954)
Nguồn: Image by © Bettmann/CORBIS

 

Nhiều người Pháp ra đi mà vẫn còn tự hỏi cái bọn nhà quê đang tấp nập trên phố, túi gạo đeo chéo trên lưng thay cho dây quàng chiến thắng, làm cách nào mà thắng được họ. Lùi lại tám năm về trước, những người lính Lê Dương trên chiến xa bốn bánh cao su trấn giữ cửa ra vào sở Hành chánh, Tài chánh. (Đây vốn là thành Hà Nội cũ, nơi trấn đóng của Tổng đốc Hoàng Diệu bị mất vào tay người Pháp vào năm 1873, sau vài giờ cố thủ) vào cái đêm 19 tháng 12 năm 1946, bọn họ còn thấy bộ đội Việt Minh như các chú con nít, vứt lại những khẩu súng gỗ trên con đường đôi chạy dọc trước sở Hành chính Tài chính. Thật sự họ không tài nào hiểu được những chú con nít đó nay đang thay thế họ làm chủ Hà Nội.

Một tổ chức phá hoại nào đó, có hệ thống đã làm hỏng kho dầu của hãng xe buýt, phá hủy các máy móc và đánh sập chùa Một cột, ngôi chùa đầy giá trị lịch sử và tôn giáo hàng trăm năm. Theo lời những người di cư, hàng ngàn người khác thuộc địa phận Bùi Chu và Phát Diệm đang tìm cách chạy trốn, có khi phải trả 5000 quan Pháp cho một chỗ trên các thứ thuyền hoặc bè. Nhiều thuyền đã bị lật và đắm luôn trong các cơn bão đang làm dữ mấy ngày này. (4)

Và hàng trăm người di cư đã bị chết đuối trong tai nạn đó. Những nhận định ở trên của tác giả, giáo sư Trần Tam Tỉnh, nguyên giáo sư khảo cổ Đại Học Laval, Quebec thật có nhiều điều cần được kiểm chứng lại. Hà Nội vào thời điểm đó làm gì đã có xe buýt để có kho xăng dầu. Những người nông dân nghèo hèn, bữa no bữa đói ở Bùi Chu, Phát Diệm lấy tiền đâu ra đóng 5000 quan cho một chỗ đi? Mà tại sao không là tiền Đông Dương thay vì tiền quan Pháp? Tác giả Thập giá và lưỡi gươm có thể nào dùng những số liệu và tài liệu hoàn toàn xuyên tạc như thế được chăng? Cuốn sách của ông sau này đã được rất nhiều người xử dụng như một thứ bảo chứng nhằm biện minh cho quan điểm của họ mặc dù đó là một sự thật được ông bịa đặt ra.

Trước khi rút lui, quân đội viễn chinh Pháp cướp bóc, phá phách nhiều cửa hàng lớn ở các phố Hàng Ngang, Phố Huế, Hàng Đào, Hàng Khay, Hàng Bài. Các hàng phở đều đóng cửa thin thít ngay từ chập tối vì sợ hãi. Những lính Lê Dương, tây đen rạch mặt say rượu la cà trên các con đường đôi, gần sở Hành chánh, tài chánh mà nay đổi là đường Hoàng Diệu. Đường Hoàng Diệu hiệu nay là chỗ ở của các quan lớn trong bộ chính trị.

Những kẻ chiến thắng vào Hà Nội

Có những đoàn xe nhà binh Pháp nối đuôi nhau ra khỏi thành phố cùng với binh đội Pháp và dân chúng. Ngược lại, có những binh đội Việt Minh xếp hàng một đi bộ ngược chiều vào thành phố. Bọn người này không có cái vẻ gì là người chiến thắng, nhiều người còn tỏ ra rụt rè, ngượng ngập, vừa đi vừa hát vài câu để lên tinh thần, che lấp cái nhút nhát đó:

Một đoàn người trai hiên ngang, đeo trên vai nợ máu xương, vui ra đi không buồn nhớ thương hay Ra đi ra đi bảo tồn sông núi. Ra đi ra đi thà chết chớ lui.

Hà Nội: một rừng cờ đỏ

Rừng cờ, rừng người, một rừng cánh tay giơ lên. Thật khó diễn tả cho hết những gì người ta nhìn thấy. Trong rừng người tiến vào thành phố, thật khó để biết ai là sĩ quan chỉ huy.Chẳng ai có thể nhận ra những đồng chí như Bùi Quang Tạo, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm. Người ta nhốn nhác tìm bóng dáng ông Giáp hay ông Hồ nhưng không thấy. Vài ngày sau, qua báo chí, người dân Hà Nội được biết các ông ấy đã về tới Hà Nội, nhưng ở đâu thì không ai hay.

Quân Việt Minh qua phố Hàng Đào Hà Nội (1954)

 


Nguồn: Image by © Bettmann/CORBIS

 

Hà Nội đã thay đổi diện mạo. Với rừng cờ đỏ. Ở đâu ra mà sẵn vậy?
Đâu đây, người ta thấy một tấm biểu ngữ lớn với hàng chữ thô kệch văn chương lắm:

Cùng nhau múa hát mấy bài
Khải hoàn ngợi khúc xây đài vinh quang


Người ta nhận thức ngay được phải ứng xử thế nào trong hoàn cảnh mới.Có một chút nhạy bén và sức lan truyền đến lạ lùng trong đám thị dân năm thành phần được cách mạng công nhận là thợ thuyền, nông dân, binh sĩ, tiểu tư sản và tiểu tư sản yêu nước. Các cô gái con nhà, yểu điệu thục nữ, mượt mà, quần lụa trắng, áo dài mà mỗi bước đi cố gắng vắt xéo đôi chân từ bên này qua bên kia nay áo cánh nâu, quần đen, tay cầm lá cờ đỏ.

Đôi guốc son thời con gái nay đổi ra đôi dép cao su, hiệu con hổ mầu trắng. Phải chăng đó là sự thay đổi tận gốc rễ của người Hà Nội?

Các bà mệnh phụ trước đây cứ một bước lại ngồi xe tay nay lạch bà lạch bạch ráng theo đoàn người đi tới. Mọi người hình như bằng mọi cách khuôn ép, tự sắp xếp mình vào năm thành phần trên. Đường phố vốn nhỏ hẹp nay chật cứng người như nêm cối. Như tự phát, từng đám người như thế lũ lượt như những đám rước trên đường phố hết đám này đến đám khác. Trong đám đông ai đó hô Hồ chủ tịch muôn năm!, thế là cả cái cỗ xe người đồng lượt vung cánh tay hô theo. Họ ùn ùn kéo đến Nhà Hát Lớn, đi qua rạp chiếu bóng Eden, nhà in Viễn Đông, còn được gọi là nhà in Ideo, hướng về phía vườn hoa Con Cóc rồi Bắc Bộ phủ. Nổi bật là những đám thanh thiếu niên, không biết bằng cách nào và từ bao giờ, ăn mặc như hướng đạo mà mỗi em đều quàng một chiếc khăn quàng đỏ.

Hình như cả thành phố chỉ có dân chúng chứ chưa có bóng dáng người lãnh đạo.

Vậy mà cái guồng máy đó chạy đều, nhịp nhàng hăm mươi bốn trên hai mươi bốn. Thành phố như vô chủ, chỉ có đám đông, chỉ có người gặp người, người nhìn người, đi ngược, đi xuôi. Gặp nhau có lối chào mới: giơ nắm tay đồng loạt hô to. Muôn năm, muôn năm!. Chẳng có gì có thể tả hết được cái ngày như thế, cái khung cảnh như thế, cái vận hành, cái chuyển đổi, lột xác như thế.

Những đoàn người cuồn cuộn như dòng nước lớn không dứt, hết đám này đến đám khác cho mãi đến nửa khuya và bắt đầu lại vào sáng sớm ngày mai. Chính quyền mới trong một tích tắc đồng hồ đã biến đổi đám người trước đây có thể là tiểu thương, viên chức của Pháp, nếu không nói là theo Tây, Việt gian của Tây trở thành một đám quần chúng hăng say mà không mất một ngày tập huấn.

Tất cả những điều mô tả và nhận xét trên đây, nó khác xa với những ngày 30/04/1975! Không có cánh tay nào dơ lên sau 75. Sài gòn 75, núp mặt trong nhà, sợ hãi dòm qua khe cửa bộ đội chiến thắng đi vào. Không có rừng người, không có những tiếng hoan hô. Chỉ có tiếng bánh xe thiết giáp xiết trên đường phố tiến vào dinh Độc Lập.

Có điều gì khác biệt giữa thái độ của dân chúng thủ đô Hà Nội và dân chúng thủ đô của Việt Nam Cộng Hoà Sàigòn sau ngày 30-04?

Thứ nhất ý nghĩa và mục đích cuộc chiến tranh Việt-Pháp 1954 thì khác với cuộc chiến 1975.

Thứ hai, đã có một triệu người rời khỏi miền Bắc di cư vào miền Nam. Những người còn ở lại ít hay nhiều đã chọn lựa gián tiếp chế độ cộng sản, Trong khi đó, chỉ có khoảng 100000 người được di tản vội vã trước 30/04. Những người còn ở lại đều bị kẹt không đi được. Nếu được phép đi thì không phải 1 triêu người như 1954 và 5 triêu người đến 10 triệu người sẽ sẵn sàng rời bỏ miền Nam. Và nếu cho phép cả những kẻ chiếng thắng từ miền Bắc cũng được di tản thì con số sẽ là bao nhiêu?

Không ai tiên đoán được.

Cho nên thái độ thờ ơ, dè dặt đến sợ hãi khi bộ đội cộng sản vào miền Nam là hiểu được.

Hà Nội với những chú bộ đội nhảy son đố mì

Nay thì nhiều người mới có dịp được biết những chú bộ đội của những ngày đầu cuộc chiến 19 tháng 12 năm 1946. Cũng chính những chiến sĩ này, sau này thành binh đoàn 308, binh đoàn mà mỗi khi lính Pháp nghe thấy đều nể sợ, đã khai tử binh sĩ Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Họ đi lộn xộn, không phải một cuộc diễn binh mà một đám rước quanh bờ hồ Hoàn Kiếm. Dễ cũng đến hai lượt đi quanh hồ hay đi một vòng rồi trở ngược lại. Mỗi lúc một phấn khích qua những bài hát, tiếng vỗ tay. Từng phút, đám thị dân Hà Nội lại hòa nhịp vào đám rước đó.

Cũng vỗ tay, cũng hát to, nhảy múa, có người chơi đàn măng đô lin, có tiếng người thổi ác mô ni ca.

Tiếng hát kèm theo điệu nhảy: son mì son là son đố mì... Người ta nhảy mùa “quê mùa tự nhiên” như người Hà Nội.

Nhưng cái phấn khích đó đã được ai đó điều động kín đáo, dàn dựng tính toán và điều khiển nhịp nhàng. Hàng trăm cánh tay, trăm cử chỉ, trăm lời nói nhân lên thành ngàn những cử chỉ tự động, máy móc, đồng loạt. Hình như đông như thế, nhưng thu tóm lại vẫn chỉ là một người.

Đó là cái biểu tượng cao và kỳ lạ, mê hoặc đã lôi cuốn cả thành phố. Đó là sức thôi miên đã biến cả thành phố tự đồng hóa mình vào chế độ. Hà Nội từ nay là hình ảnh của chế độ mới. Trong một thoáng giây, quá khứ cả trăm năm dưới sự đô hộ của người Pháp như những bọt xà bông tan biến mất.

Nhưng đấy vẫn chỉ là cái bề ngoài thấy được.Vẫn chưa phải là cái thực lòng của mỗi người, mỗi gia đình. Những cái không thấy đựợc, không nghe được, phải chờ bóng đêm về, trong sâu thẳm lòng người mới lộ ra những khắc khoải, trằn trọc.

Ai có qua cầu mới hay. Thật ra, trong chế độ xã hội cộng sản, ít ai có tin tưởng vào chế độ ấy. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng 30/04/1975, vậy mà khi vào đến Sài gòn, Đào Duy Anh thố lộ với Nguyễn Hiến Lê: Ông ngại rằng, hai ba chục năm nữa, kinh tế vẫn chưa tiến được và xã hội chủ nghĩa vài trăm năm nữa cũng chưa xây dựng xong, mình sẽ bị phương Tây bỏ lùi lại sau rất xa, nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ (Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 521)

Tâm trạng đó cũng là tâm trạng người Hà Nội. Ưu tư và lo lắng. Thái độ không phải là chống đối, mà nhẫn nại Trông chờ (Attentistes). Thụ động và bất nhẫn.

Hà Nội nay có thêm cả triệu người mới tới, không nói cùng một thứ ngôn ngữ. Lớp ngườivHà Nội thuộc thành phần có ăn học, trí thức thành thị không bảo nhau mà cứ thế bỏ đi .

Đó là những người Hà Nội chính hiệu. (Hanoiens), có thứ ngôn ngữ của họ cách sống, cách ăn mặc của họ.

Từ đó có sự xung đột giữa kẻ chiến thắng và kẻ thua trận, giữa lớp thị dân và lớp người ở thôn quê, giữa tầng lớp công chức từng làm việc cho Pháp có học và chuyên môn so với cán bộ từ bưng biền ra. Người ta kể rằng, lớp cán bộ về tiếp thu Đài phát thanh Hà Nội rụt rè khi bước chân vào tòa nhà đài phát thanh đồ sộ, máy móc tối tân, bực cầu thang trải thảm đỏ. Không ai bảo ai, họ đã tự động bỏ đôi dép râu cầm trên tay bước lên cầu thang.

Thế là nhà quê lắm.

Dân Hà Nội chính thống nay trở thành thứ thiểu số bên lề, không quyền hành. Thật vậy, Cho đến năm 2000, 9 người trong ban lãnh đạo Ủy Ban Trung ương đảng, chỉ có môt người sinh đẻ ở Hà Nội. Dân số Hà Nội bây giờ đông gấp đôi dân số Hà Tĩnh, nhưng số dân biểu Hà Nội thì chưa bằng nửa số dân biểu Hà Tĩnh.

Hà Nội hoan hô thế đấy. Nhưng Hà Nội vẫn là cái nôi của những chống đối, bất mãn sau này qua nhóm Nhân Văn giai phẩm và những chống đối bất mãn dài dài sau này.

Có rất nhiều mâu thuẫn, dị biệt khá tế nhị như thế mà đôi khi không làm thế nào cởi gỡ ra được. Nhân đây, xin kể một câu truyện có thật về một thanh niên Hà Nội buôn bán, giầu có, có nhà ở Sài Gòn. Cậu vào trong Nam, gặp được một thiếu nữ miền Nam, gốc Bắc, rất xinh đep. Hai người yêu nhau, tính chuyện hôn nhân... Nhưng rủi là cô gái được chị bảo lãnh sang đoàn tụ với gia đình ở bên Mỹ. Sang Mỹ thiếu nữ được đi học lại được một năm, cô gái vẫn thương nhớ người tình cũ còn ở lại. Cô được người yêu mua vé máy bay để về thăm nhà. Một bữa, cùng ngồi ăn nơi sạp bán hoa quả cô gái thấy cậu thanh niên , người yêu, mặc chiếc quần đùi, để hở cái thìu biu của cậu ra ngoài. Cô cảm thấy xấu hổ, turn off... và chỉ một tuần sau quyết định quay về Mỹ.

Hóa ra chỉ vì khác biệt nếp sống, văn hóa. Làm thế nào để người Hà Nội mới và Hanoiens ngôi chung một mâm với nhau được?

Hà Nội với bức màn tre

Khi mà những người Pháp cuối cùng đã rời Hà Nội.Và khi mà thời hạn 100 ngày cuối cùng dành cho Hải phòng cũng đã hết hạn.

Tại miền Bắc, chính quyền CS dựng nên một bức tường tre bao phủ chẳng những Hà Nội mà toàn thể miền Bắc Việt Nam.

© DCVOnline


1) Trích lại trong annexe 1, J.O ngày 25 tháng 4 năm 1954, trong Les 170 jours de Diên Biên Phu, Erwan Bergot, Presse de la Cité, 1979.

Nghị định 18
Theo đề nghị của Thứ trưởng Bộ Chiến tranh. Bộ trưởng Bộ quốc phòng và quân lực.
Được tuyên dương của quân đội Đông Dương. Để chấp hành.

Đội quân đồn trú tại Điện Biên Phủ. Từ nhiều tuần nay, dưới quyền chỉ huy của đại tá De Castrie, quân đội Liên Hiệp Pháp đẩy lùi được nhiều cuộc tấn công mãnh liệt ngày và đêm của một quân địch đông đảo hơn về số lượng người.

Sự hi sinh dũng cảm của những người đã nằm xuống cùng với sự chiến đấu kiên cường của những chiến sĩ đã đem lại vinh quang cho danh dự quân đội chúng ta.
Hợp nhất trong tình chiến thắng, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ đã được sự ngưỡng mộ của thế giới tự do, sự tự hào lòng biết ơn của nước Pháp. Lòng can đảm của họ mãi mãi vẫn là những tấm gương mẫu mực.

Sự tuyên dương này gồm có huân chương chiến tranh về các cuộc hành quân hải ngoại với nhành dương liễu.

Paris ngày 7 tháng 4 năm 1954.
Ký tên: R. Pleven
Trưởng Bộ Chiến tranh: Ký tên: P. de Chevigne

(2) Chiến dịch Castor thực sự mở màn bằng cuộc không vận lớn nhất trong cuộc chiến tranh này vào ngày 20/11/1953 với khoảng 1500 lính dù được đổ xuống trong vòng chảo Điện Biên Phủ. Tướng De Castries đến Điện Biên Phủ vào ngày 07/12/1953. Vào khoảng từ tháng 01 đến tháng 02, khi các cứ điểm đã được thiết lập, ông đã đặt một số tên cho 49 cứ điểm bắt đầu bằng những tên con gái như Anne-Marie, Béatrice, Claudine, Dominique, Eliane, Françoise, Huguette, Isabelle. Béatrice là cứ điểm nằm ở phía Bắc, cứ điểm đầu tiên lãnh trận mưa pháo với khoảng 5000 trái rớt xuống từ 5 giờ 15 phút chiều ngày 13 tháng 3. Hai giờ sáng ngày 14 tháng 03, cứ điểm Béatrice bị xoá tên. Có một số người viết dùng những tên cứ điểm con gái này để ám chỉ De Castries là loại ham mê cờ bạc và trai gái. Thật ra việc thất trận đủ là một tủi nhục rồi, chả cần thêm những chuyện bôi nhọ đó.
(3) Một số nội dung này phỏng theo cuốn La guerre, L’enlissement, L’humiliation, L’aventure của Lucien Bodard, Bernard Grasset, Paris 1997.
(4) Thập giá và lưỡi gươm, Trần Tam Tỉnh, NXB Trẻ, T.p. Hồ Chí Minh, 1988, trang 108-109.
(5) Le Dragon d’Annam, NXB Plon, 1979, trang 293.
(6) Đặc biệt tướng Giáp, kẻ thắng trận, vị tướng duy nhất trong bộ đội Việt Minh có những đánh giá khá cao với tư cách của một kẻ làm tướng đối với kẻ thù của mình. Ông viết: Trước đây, ta thường hiểu sức mạnh của địch là ở vũ khí, trang bị hiện đại, chỗ yếu của địch là tinh thần, một công cụ xâm lược, một đội quân đánh thuê. Nay ta đã thấy rõ thêm cái mạnh của một quân đội nhà nghề. Chỉ huy Pháp đều được đào tạo chính quy theo chuyên ngành từ những trường quân sự có kinh nghiệm lâu đời. Quân đội Pháp có một đội ngũ chuyên môn về binh khí kỹ thuật. Binh sĩ đều được huấn luyện kỹ trước khi tung ra chiến trường. Cách đào tạo này kết hợp với những vũ khí hiện đại phát huy cao độ sức mạnh trong những trận đánh lớn. (Trích trong Đường tới Điện Biên Phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hữu Mai thể hiện, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, trang 298).