Thư "đáp lễ" quân Thanh của một lãnh binh nhà Nguyễn Print
Tác Giả: saigonecho sưu tầm   
Thứ Ba, 07 Tháng 6 Năm 2011 15:04

Lời bàn :

Thư "đáp lễ" quả là một bức thư ngoại giao sắc bén : - Vừa khiêm tốn, vừa kiêu hùng; Đã bộc trực mà lại sâu sắc...

 

ấy là chỉ một võ tướng nhỏ cấp tỉnh của triếu đình phong kiến mà như vậy.
Đem so ra với một tập thể "Đỉnh cao trí tuệ", "Cái nôi nhân loại" ....mà chỉ một dạ hai nâng.
- Tàu cộng ra tuyên cáo quần đảo Hoàng Sa là của nó, bên này : - dạ xin nhất trí.
- Tàu Ô nhắc cọc biên cắm sâu vào lảnh thổ ta, mất cả Ải Nam Quan, Bản Dốc...bên này : - dạ ..."sông liền sông, núi liền núi; môi hở răng lạnh..." Bộ Chính Trị âm thầm ký kết nhượng đất !
- Tàu của Tàu Cộng uy hảm, vào biển ta đánh phá ngư dân : - bên này dạ thưa : "tàu lạ...."
- Trí thức, Sinh Viên chống tàu xâm lược thì phủ nhà nước : dạ " chúng nó phản động, nghe lời kẻ xấu, thế lực đế quốc ...vào tù.
- Mở cửa cho Tàu Cộng vào khai thác Bô Xít Tây nguyên. Trí thức, nhân dân phản đối . "Đầy tớ nhân dân" hè nhau vâng : -u lì quyết giữ ghế.


Đọc và suy nghỉ, càng hảnh diện ngày xưa bao nhiêu càng xót đau ngày nay bấy nhiêu.
Ôi, "yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội..." độc quyền yêu nước và độc quyền bán nước !
(Lời bàn của người sưu tầm)

 
 Nước ta ở một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng nên trong lịch sử luôn bị các thế lực ngoại bang nhòm ngó. Trước những mưu đồ thôn tính, xâm lược, cha ông ta đã vận dụng sách lược ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên định, cương quyết, không chỉ nhằm bảo toàn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền mà còn khiến ngoại bang phải chùn
 
Câu chuyện dưới đây là một minh chứng thể hiện sách lược đó.

Năm Tân Mão (1831) đời Minh Mạng nhà Nguyễn, ở Hưng Hóa (1) có một thổ tù là Đèo Văn An, vì phạm lỗi nên đã bỏ trốn sang Vân Nam nước Thanh. Bọn quan quân ở đây nhân muốn xâm lấn lãnh thổ nước ta liền viện cớ tra xét sự việc, cứu giúp người bị oan rồi hội binh áp sát biên giới.
 
Nghe tin cấp báo, viên lãnh binh Thắng trông coi việc quân ở Hưng Hóa được lệnh dẫn binh đi đối phó. Để khiêu khích, quân Thanh gửi sang một bức thư dọa nạt, lời văn ngạo mạn, hống hách. Trước sự việc đó, lãnh binh Thắng một mặt cho quân lính tích cực chuẩn bị, sẵn sàng ứng chiến, mặt khác viết thư trả lời nêu rõ tội trạng của Đèo Văn Anh. Trong bức thư trả lời của lãnh binh Thắng, đề ngày 26 tháng 7 năm Tân Mão (1831) có đoạn:

“… Các người đã vì nó mà đến để tra cứu làm việc, nay sự lý đã rõ ràng như thế, tự nên chỉ rõ cho nó để điều đình cho yên việc. Thế là không những chỉ bảo toàn được cho một mình Đèo Văn An mà không đến nỗi phải gây động can qua, nhân dân không đến nỗi gặp tai họa, mới là tốt lại càng tốt đấy!

Chúng tôi vâng mệnh quan trên đến đây để giữ gìn đất đai bờ cõi, vốn không chịu đối trận giao binh với các người một cách dễ dàng, nhưng xưa nay muốn giữ được trọn vẹn hòa hảo thì trong lòng hai bên đều cần phải bỏ qua đi, thì mới trọn vẹn được.
 
Nay nhận được tờ trát đưa đến, nói các lời rằng: “Nếu đến nỗi gây động can qua thì chúng bay không khỏi người mệt, lương thiếu”, thật là đa tạ các người đã uổng phí lòng chiếu cố rồi đấy. Núi là đường của chúng tôi, ruộng là lương của chúng tôi, có gì là mệt với thiếu? Chỉ sợ các người xa thì thiếu thốn thôi.
 
Các người lại nói các lời rằng: “Đến nơi gần mà điều binh sẽ được ngay tám chín nghìn tên. Lấy người nhàn rỗi mà đối địch với kẻ mệt nhọc”. Các người vượt bờ cõi đến đây còn phải mất công triệu tập, chứ đấy là trong nhà chúng tôi, cỏ cây đều là quân lính, một hai vạn cũng có chứ sao lại chỉ có tám chín nghìn? Thì ai là nhàn rỗi, ai là mệt nhọc?

Chúng tôi kính thuận là vì nên làm theo nghĩa lý chứ không phải là đất đai và quân lính yếu. Trong các người phần nhiều là người đọc sách biết thời vụ, há không nghe thấy công việc từ thời Nguyên, thời Minh tới nay mà so sánh với công việc của nhà Trần, nhà Lê đấy sao? Các người đã hẹn với chúng tôi là mười ngày thì xong việc, thế mà bấy lâu không thấy rút quân, há không phải là theo lối cũ làm chước hoãn binh, hoặc lại tụ tập bọn khác đến mưu hại chúng tôi đấy sao?
 
Nếu ngày nay bọn con em chúng tôi không ngại phiền phức thì cứ tiến lên một bước là đánh một bước, bắn một phát súng thì há không phải là các người cố ý kích động chúng tôi đấy sao? Nếu sau này xảy ra một việc không tốt lớn hoặc nhỏ thì rõ ràng là không phải tự chúng tôi gây ra rồi. Chúng tôi lại sợ quan trên của các người sẽ đem cái tội lớn là “gây càn ra thù hằn nơi biên giới” mà đun đẩy lên mình các người thì các người chịu đựng thế nào?…

Trăm việc lấy hòa làm quý, thử đem lời nói của tôi mà ngẫm nghĩ kỹ xem! Nếu thu xếp xong được sớm, rút về không lưu lại một giờ nào thì tôi cũng không cần ở lâu để cai quản việc không cần thiết. Nếu để chậm đến cuối mùa thu thì lam chướng ngày càng nặng, mưa lụt ngày càng nhiều, lính của tôi đã quen thuộc khí hậu còn cảm thấy khó nhọc, huống chi lính các người quen ở đất Bắc, nay ở lâu trong vùng lam chướng sợ không chịu nổi.
 
Vả chăng các người là bực đại trí tuệ, đại kiến thức, mong hãy soi xét lời nói phải, sắp xếp hoàn thành việc rất tốt này cho cả hai bên, há không phải tay không mà tạo thành được tòa tháp bảy tầng, không những con cháu được hưởng công đức ấy vô cùng, mà tự mình trước đã hưởng điều rất vui sướng đấy.

Hơn nữa mảnh đất sỏi đá này có hay không thì có quan hệ gì? Việc đi lần này chắc chỉ vì lầm nghe bọn tiểu nhân nói những điều khách khí, nay thì điều khách khí đã thoải mái rồi, còn đòi gì nữa? Chúng tôi đi chuyến này vốn là bất đắc dĩ, mong các người tỏ lòng tốt. Nếu buổi sớm các người rút quân thì buổi chiều chúng tôi cũng cáo từ đấy, chúng tôi há có thích gì cái việc không vui sướng này đâu! Chúng tôi đã thành tâm khuyên nhủ, các người nên nhớ cho kỹ. Vậy đưa tờ trát này để trả lời các người biết”.

Theo quan chế thời Nguyễn thì lãnh binh chỉ là võ tướng chỉ huy quân đội ở địa phương, nhưng việc làm của lãnh binh Thắng thật đáng khâm phục. Mặc dù lời lẽ và cách hành văn trong bức thư của ông rất mềm mỏng nhưng lại khôn khéo, cương quyết, dù ở thế yếu trước một kẻ mạnh hơn mà vẫn thể hiện khí phách hiên ngang, khẳng định quyền tự quyết thiêng liêng, ý chí tự cường, sẵn sàng đánh trả bất cứ thế lực nào xâm phạm đến lãnh thổ và nền độc lập của đất nước.

Lê Thái Dũng
------------
(1)    Hưng Hóa bao gồm các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái, Lào Cai ngày nay