Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Sau Bức Màn Đỏ: hậu trường chính trị Việt Nam sau 1975 (20)

Sau Bức Màn Đỏ: hậu trường chính trị Việt Nam sau 1975 (20) PDF Print E-mail
Tác Giả: Hoàng Dung   
Thứ Sáu, 12 Tháng 6 Năm 2009 05:01

(Tiếp theo)

Ít lâu sau, đến lượt Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Xây Dựng Ngô Xuân Lộc bị mất chức phó thủ tướng vì bị nghi là thông đồng với Lê Tất Cương gian lận tiền mua xi măng và lem nhem trong công trình xây dựng công viên Thủy Cung Thăng Long. Sự cách chức và bắt giữ Ngô Xuân Lộc cũng có thể là do tranh chấp giữa phe của Lê Ðức Anh và phe chính phủ của Phan Văn Khải, vì chính trợ lý của Lê Ðức Anh là Nguyễn Bắc Son đã điều động báo chí tấn công Ngô Xuân Lộc. Mấy tháng sau, do Ðỗ Mười can thiệp, Ngô Xuân Lộc được minh oan và lại được Phan Văn Khải chỉ định làm cố vấn đặc biệt về kỹ nghệ, xây dựng và giao thông. Chính Ðỗ Mười cũng phải lên tiếng cải chính là ông ta không hề nhận rượu vang của một tổ hợp công ty Ðại Hàn (nhiều tin đồn nói là Ðỗ Mười nhận hối lộ của tổ hợp này một triệu Mỹ kim).
 
Ngô Xuân Lộc bị bắt là do tố cáo của Tổng Cục 2, và người cho tài liệu để tố cáo là Nguyễn Thái Nguyên, một viên chức trong văn phòng thủ tướng của Phan Văn Khải đã được Tổng Cục 2 chiêu dụ để nằm vùng. Ðể trả đũa lại Tổng Cục 2, phe chính phủ cho Bộ Nội Vụ bắt và kết tội Nguyễn Thái Nguyên là đã cùng Tổng Cục 2 vu cáo Võ Thị Thắng, tổng giám đốc tổng Nha Du Lịch. Tổng Cục 2 đã từng tố cáo là trong khi ở tù Côn đảo, Võ Thị Thắng đã làm chỉ điểm cho công an VNCH. Trong vụ này, ngoài Nguyễn Thái Nguyên, Tổng Cục 2 còn dùng một nhân viên nằm vùng khác trong công ty du lịch là Nguyễn Thị Thanh Hiền.
 
Giữa năm 1998, cơn khủng hoảng kinh tế Á Châu trong năm 1997 mới ảnh hưởng tới Việt Nam vì phần lớn (60%) hàng xuất cảng của Việt Nam là để bán cho những nước lân bang và những nước đầu tư nhiều nhất ở Việt Nam như Ðại Hàn, Singapore, Thái Lan... đều gặp khó khăn. Hàng xuất cảng bị giảm đi một phần ba. Vốn ngoại quốc đầu tư giảm đi một phần tư so với năm trước. Nhân số thất nghiệp lên tới 20%. Trong cuộc họp hàng năm của Ngân Hàng Thế Giới và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế, Nguyễn Tấn Dũng đã phải lên tiếng yêu cầu Việt Nam được trợ giúp thêm. Tuy nhiên, vì thành phần bảo thủ chiếm đa số trong Trung Ương Ðảng và Bộ Chính Trị, cho nên ngoài việc tìm cách khuyến khích cách sử dụng vốn trong nước để đầu tư thay thế vốn nước ngoài, những buổi họp của Trung Ương Ðảng năm 1998 chú trọng nhiều hơn vào những vấn đề văn hóa hay ý thức hệ nhằm củng cố quyền lực của Ðảng mà không đưa ra một biện pháp cải thiện kinh tế nào khác. Tiếp theo đó là hội nghị Trung Ương Ðảng lần thứ sáu đầu năm 1999 cũng chỉ chú trọng đến việc kiện toàn bộ máy Ðảng hay chính phủ, hoặc đề ra chiến dịch “phê và tự phê” trong ba năm để thanh lọc hàng ngũ.
 
Ngoài ra, cuối năm 1998, Phân Bộ Kinh Tế, thuộc Tổng Cục Kinh Tế và Kỹ Nghệ Quốc Phòng được nâng cấp lên thành một Cục Kinh Tế, đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Quốc Phòng. Kể từ đó, hầu như không có một ngành kinh tế nào mà quân đội không nhúng tay vào đầu tư, và hầu như ngành nào của quân đội cũng có riêng một cơ quan làm ăn buôn bán, đáng kể nhất là cục quân báo, lúc sau này được nâng lên thành Tổng Cục 2, có quyền theo dõi, bắt bớ, điều tra những việc không những chỉ liên quan đến quân sự mà còn về chính trị, kinh tế. Vào giữa năm 1998, quân đội Việt Nam bị tổn thất khi một máy bay quân sự Yak -40 do Liên Xô chế tạo bị rớt bên Lào, có 26 người tử nạn, trong đó có các Tướng Ðào Trọng Lịch, Tham Mưu Trưởng Quân Ðội, Trần Tất Thành, Tư Lệnh Quân Khu II, Trần Minh Thiết, Tư Lệnh Phó Quân Khu V cùng với các Tướng Phạm Minh Thành, Vũ Xuân Thủy và một số sĩ quan cao cấp Ai Lao (7 năm sau, 2005, một máy bay trực thăng MI 8 cũng do Nga Xô chế tạo đâm vào núi ở Nghệ An, gây thương vong cho tất cả những tướng lãnh chỉ huy quân khu IV, trong đó có Trung Tướng Tư Lệnh Trương Ðình Thanh, Tư Lệnh Phó Nguyễn Bá Tuấn, Chủ Nhiệm Chính Trị Lê Hữu Phúc và nhiều sĩ quan cao cấp khác).
 
Sau khi Ðào Trọng Lịch chết, Lê Văn Dũng, người tỉnh Bến Tre, lúc đó đang là thiếu tướng tư lệnh quân khu VII ở miền Nam được gọi về Hà Nội thay. Cũng như Phạm Văn Trà , sự lên chức nhanh chóng của Lê Văn Dũng là do sự đỡ đầu và cất nhắc của Lê Khả Phiêu và Lê Ðức Anh. Những người này đã biết nhau trong thời gian phục vụ ở miền Nam và Căm Pu Chia. Vì lý do đó, cùng với Phạm Văn Trà , Lê Văn Dũng đã hết lòng phục vụ cho Lê Ðức Anh.
 
Sự hiện diện của một phái đoàn tướng lãnh tư lệnh những quân khu giáp ranh với Ai Lao trên chuyến máy bay bị tử nạn kể trên cho thấy Việt Nam vẫn còn có những hoạt động quân sự ở Ai Lao. Dù Bộ Ngoại Giao Việt Nam cực lực chối bỏ, nguồn tin ngoại giao ở Ai Lao cho biết vào tháng 5 năm 2000, quân Việt Nam đã phải can thiệp để giúp đỡ quân Ai Lao đánh dẹp một số quân khởi loạn người Hmong trong tỉnh Xieng Khoang và trong tháng 6, báo chí Hà Nội đã đăng tin Tướng Nguyễn Khắc Dương, tư lệnh quân khu IV đã cùng Ðại Tá Sayphoubanh của Ai Lao đặt viên đá đầu tiên xây dựng một quân y viện tại tỉnh này. Cũng tại Ai Lao, hai tháng sau, một trái bom nhỏ gài sát tường tòa đại sứ Việt Nam được gỡ ngòi nổ. Những nguồn tin ngoại giao tin rằng đó không phải do nhóm chống đối người Hmong mà là do một nhóm thân Trung Hoa trong Ðảng Cộng Sản Ai Lao, vì dù đã có sự hòa hoãn Việt Hoa, Trung Hoa vẫn luôn tìm cách lấn át ảnh hưởng của Việt Nam tại Ai Lao và Căm Pu Chia. Ði trước Việt Nam, từ năm 1988, Ai Lao đã bắt đầu nối lại quan hệ ngoại giao với Trung Hoa. Ðể có thể thông thương với Thái Lan, Trung Hoa đã tích cực viện trợ cho Ai Lao, nhất là việc mở mang xa lộ theo hướng Bắc Nam từ Trung Hoa qua Vạn Tượng tới Thái Lan. Theo thống kê, từ 1988 đến 2001, Trung Hoa đã viện trợ cho Ai Lao khoảng 1.7 tỷ Mỹ kim. Khác với các nước Nhật, Tây Âu, Úc, Ngân Hàng Thế Giới đòi Ai Lao phải thi hành nhiều điều kiện như cải tổ hành chánh, chống thất thoát, cải thiện nhân quyền, Trung Hoa khi viện trợ gần như đã không đòi hỏi một điều kiện nào. Xét về ảnh hưởng đối với Ðảng Cộng Sản Ai Lao, so sánh với Trung Hoa, Việt Nam hiện nay vẫn chiếm uy thế nhưng điều này có thể bị xoay ngược lại trong tương lai.
 
Cuối năm 1999, nhằm nâng cao phẩm chất quân đội, quốc hội ra một đạo luật đòi hỏi những sĩ quan phải có trình độ đại học. Cấp trung đoàn trưởng trở lên phải có bằng cấp hậu đại học (không nhất thiết là văn hóa mà có thể là chính trị, lý luận... và có thể học “tại chức”). Các chức vụ được đề cử cũng phải theo thứ bậc, chẳng hạn phải là tư lệnh quân đoàn (chỉ huy khoảng 3 sư đoàn) trước khi là tư lệnh phó quân khu (chỉ huy lãnh thổ) để làm tư lệnh quân khu. Số tướng lãnh được giảm xuống giới hạn còn 150 người.
 
Do sự ưu thắng của phe quân đội và được Lê Khả Phiêu nâng đỡ, Tổng Cục Kinh Tế và Kỹ Nghệ của quân đội tiếp tục bành trướng. Năm 1998, Phạm Văn Trà ra lệnh cho những quân khu và những binh đoàn thiết lập nên những “khu kinh tế quốc phòng” và một năm sau, 13 khu đã được thành lập với số vốn khoảng trên 200 triệu Mỹ kim. Phần lớn những khu kinh tế này nằm dọc theo biên giới của Việt Nam với Trung Hoa, Lào và Căm Pu Chia. Tùy theo hoàn cảnh địa phương, mỗi khu kinh tế kinh doanh những ngành khác nhau. Chẳng hạn binh đoàn 15 đóng tại vùng Tây Nguyên đặt kế hoạch khai khẩn đất hoang, trồng trà, cà phê, nuôi gia súc..., công binh của binh đoàn lập đường sá, xây nhà cửa, trường học. Binh chủng hải quân lập xưởng sửa chữa tàu và để cho một số tàu tuần kiêm nhiệm thêm việc đánh cá. Khi Trung Hoa bị mất mùa, dù trái luật, tàu hải quân cũng đã chở lúa gạo từ miền đồng bằng Việt Nam sang bán cho Trung Hoa kiếm lời. Không quân có tổ hợp công ty hàng không lo việc chuyên chở hành khách thương mại (kể cả những toán chuyên viên đi tìm người Mỹ mất tích) và huấn luyện phi công. Quân y lập bệnh viện tư. Lực lượng biên phòng phá rừng, xây trường học và cung cấp giáo viên cho dân thiểu số. Học Viện Kỹ Thuật Quân Ðội cũng thành lập công ty điện toán Tecapro ký khế ước với hãng dầu Vietsovpetro cùng nhiều công ty ngoại quốc khác. Những tổ hợp công ty của quân đội thành công nhất là công ty Trường Sơn (binh đoàn 12), công ty Thanh An (binh đoàn 11), công ty Tây Nguyên (binh đoàn 15)... Ngay cả Tổng Cục 2 tình báo cũng có những công ty Vasuco, Toseco buôn bán vũ khí, khách sạn Hoàng Gia, công ty xây dựng Hồng Bàng. Cũng như những công ty quốc doanh, những công ty quân đội nếu bị lỗ lã, sẽ được ngân sách quốc gia tài trợ.
 
Sang đến năm 1999, kinh tế của Việt Nam tiếp tục xuống dốc. Ðầu tư của ngoại quốc xuống 4 tỷ Mỹ kim năm 1998 tới 1999 xuống còn có 1.48 tỷ. Các công ty ngoại quốc ở Việt Nam phần lớn bị lỗ. Nhưng lỗ nhiều nhất là những công ty quốc doanh. Khoảng hơn 2,000 trong hơn 6,000 công ty quốc doanh bị lỗ và dĩ nhiên chính phủ phải bù đắp. Ngân Hàng Thế Giới và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế ngưng không cho vay trừ khi Việt Nam áp dụng “một phương cách đổi mới toàn diện hơn”, trong đó có 3 mục tiêu:
 

1. hoặc tư nhân hóa, hoặc cải tổ lại những công ty quốc doanh;

2. cải tổ lại hệ thống ngân hàng, kể cả 4 ngân hàng chính của nhà nước;
3. cải tổ lại ngành thương nghiệp, mở rộng thị trường.
 
Tuy nhiên, khi phe đổi mới đề nghị với Trung Ương Ðảng những biện pháp kể trên, nhóm bảo thủ lại thấy đó chỉ là những âm mưu của tư bản nhằm bóc lột và thao túng kinh tế những nước nghèo. Theo họ, tư nhân hóa những công ty quốc doanh chỉ là một phương cách để giảm thiểu uy quyền của Ðảng và nhà nước, phá hoại định hướng xã hội chủ nghĩa, còn mở rộng thị trường để những công ty ngoại quốc cạnh tranh với giá thành rẻ hơn sẽ làm suy sụp những công ty quốc doanh, tạo ra nạn thất nghiệp và xáo trộn an ninh. Vì thế, khi dự thảo thỏa hiệp thương mại song phương (BTA-bilateral trade agreement) Việt Nam-Hoa Kỳ được hoàn tất, dù cho Lê Khả Phiêu ủng hộ thỏa ước vì nó giúp thuế khóa hàng hóa Việt Nam vào Hoa Kỳ giảm từ 40% xuống còn 3%, và tính ra Việt Nam sẽ được lợi khoảng 800 triệu Mỹ kim trong năm đầu tiên, nhưng việc ký kết đã bị phe bảo thủ trì hoãn lại. Bản dự thảo hiệp ước được thương thuyết từ năm 1997 và với sự đồng ý của Lê Khả Phiêu, việc ký kết được dự trù khi Phan Văn Khải sang Tân Tây Lan họp hội nghị kinh tế các nước ven Thái Bình Dương (APEC) và gặp Clinton ở đó vào tháng 9 năm 1999.
 
Vì khi ký thỏa hiệp BTA, một số những công ty quốc doanh, làm ăn thua lỗ, sẽ không còn có thể được trợ cấp, những Ðảng viên cao cấp có liên quan với những xí nghiệp quốc doanh đã vận động với Ðỗ Mười can thiệp để Lê Khả Phiêu trì hoãn lại. Ngoài ra, một lý do khác là lúc đó Trung Hoa cũng đang nghiên cứu ký một thỏa hiệp tương tự với Hoa Kỳ. Cảm thấy không thể đi trước nước đàn anh, Lê Khả Phiêu đã chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao phải tuyên bố là Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng. Một tháng sau, khi Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ tám họp để nghiên cứu lại, hội nghị đã kết luận là bản dự thảo này “không quân bình, cần nghiên cứu thêm”. Tháng sau, từ ngày 8 đến 15-10-1999, do lệnh của Ðỗ Mười và Lê Khả Phiêu, Phạm Thế Duyệt, một ủy viên Bộ Chính Trị, lên đường sang Trung Hoa tham khảo ý kiến về việc ký kết thỏa ước. Dù cho Trung Hoa đã khuyến cáo là Việt Nam nên thận trọng khi ký kết với Hoa Kỳ nhưng chỉ vài tuần lễ ngay sau đó, các cấp lãnh đạo Việt Nam đã rất ngỡ ngàng khi Trung Hoa nhanh chóng ký kết một thỏa ước tương tự với Hoa Kỳ, mở đường cho Trung Hoa gia nhập vào cộng đồng thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2001, trong khi sự trì hoãn của Việt Nam một phần do khuyến cáo của Trung Hoa đã làm chậm đi việc gia nhập tổ chức này cho tới tháng 11 năm 2006. Một số công ty ngoại quốc dự định đầu tư ở Việt Nam thấy Trung Hoa đã ký BTA với Hoa Kỳ đã bỏ sang Trung Hoa làm ăn. Tác giả Templer chuyên về Việt Nam nhận xét: “Không phải Trung Hoa bảo họ không ký. Họ chỉ không muốn qua mặt Trung Hoa. Họ nghĩ là tốt hơn nên để Trung Hoa được gia nhập WTO trước.”
 
Thời gian chờ đợi ký kết thỏa ước càng kéo dài càng bất lợi cho Việt Nam. Nhưng chỉ sau khi nước đàn anh và cộng sản gương mẫu là Trung Hoa đã ký, những phần tử bảo thủ mới phải chấp nhận thực tế là họ cần có nguồn vốn đầu tư ngoại quốc, cần phát triển xuất khẩu mới có hy vọng đạt được mục tiêu biến Việt Nam thành một nước công nghiệp và hiện đại vào năm 2020. Tám tháng sau, Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ mười mới công nhận là Việt Nam không còn cách nào khác là hòa nhập vào kinh tế trong vùng và kinh tế thế giới, nhất là với Hoa Kỳ. Vũ Khoan được cử sang Hoa Thịnh Ðốn để ký thỏa ước thương mại song phương BTA với Hoa Kỳ vào ngày 13-7-2000, nhưng việc gia nhập vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO của Việt Nam cũng đã phải chờ đến cuối năm 2006 mới xong, sau Trung Hoa đến hơn năm năm. Sau hiệp ước song phương, sự cải thiện bang giao giữa hai nước Việt Mỹ được thể hiện qua việc 3 chiếc phi cơ C130 của Hoa Kỳ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất vào tháng 10 năm 2000 sau 25 năm vắng bóng để chờ đồ cứu trợ cho những nạn nhân của một cơn bão lớn vừa gây chết chóc và tàn phá tại những tỉnh duyên hải miền Trung và miền Nam.
 
Sự chần chừ thay đổi ý kiến của Lê Khả Phiêu đã làm nản lòng phe đổi mới, trong khi mấy tháng sau Lê Khả Phiêu vẫn lại chấp thuận cho ký kết thỏa ước cũng đã làm cho phe bảo thủ bất bình. Ðiều này xảy ra là do thái độ của Lê Khả Phiêu đối với Trung Hoa. Mới đầu Lê Khả Phiêu thay đổi ý kiến không dám ký thỏa ước với Hoa Kỳ là vì cùng với Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu sợ làm mất lòng Trung Hoa. Lúc sau, sau khi Trung Hoa đã ký thì Lê Khả Phiêu mới mạnh dạn hùa theo phe đổi mới. Ðó là một trong những lý do khiến Lê Khả Phiêu đã bị mất chức trong khi chỉ được làm Tổng bí thư mới hơn ba năm.
 
Trong khi khả năng lãnh đạo của Lê Khả Phiêu, dù xuất thân là một tướng lãnh, được coi là yếu kém, ưu điểm duy nhất của Phiêu là cuộc sống bình dị và gia đình không bị tai tiếng. Tiếng xấu duy nhất của đời tư Lê Khả Phiêu là có tin đồn Lê Khả Phiêu bị trúng phải mỹ nhân kế của Trung Hoa, khiến cho thời gian Lê Khả Phiêu cầm quyền là thời gian Việt Nam nhượng bộ Trung Hoa nhiều nhất, kể cả phải nhượng bộ đất đai trong tranh chấp về biên giới. Tuy tin đồn không được kiểm chứng, nhưng thái độ qui phục Trung Hoa của Lê Khả Phiêu đã được thể hiện rõ ràng. Sau khi Lê Khả Phiêu, với tư cách tổng bí thư, sang thăm Trung Hoa vào tháng 2 năm 1999, phái đoàn thương thuyết của Việt Nam đã bị áp lực để hoàn tất thỏa ước về biên giới Việt Hoa trên đất liền trước năm 2000 và thỏa ước này đã được ký kết tại Hà Nội vào cuối năm 1999 giữa Nguyễn Mạnh Cầm và Ðường Gia Truyền (Tang Jiaxuan). Thỏa ước là một thắng lợi ngoại giao lớn cho Trung Hoa, vì ngoài việc được Việt Nam nhượng bộ về đất đai, trong tháng trước, trong hội nghị thượng đỉnh các quốc gia ASEAN ở Manila, Trung Hoa đã từ chối không chịu ký vào bản đề nghị “qui tắc hành sử” (code of conduct) trong những tranh chấp biên giới dù trên bộ hay trên biển. Ðạt được thỏa hiệp với Việt Nam, Trung Hoa đã chứng tỏ là họ có thể giải quyết riêng với từng quốc gia theo cách “chia để trị” của họ. Cũng theo cách này, do chủ trương của Lê Khả Phiêu, Việt Nam cũng sẽ đi lẻ với Trung Hoa mà giải quyết ranh giới trên biển vào năm sau. Trong chuyến đi thăm Trung Hoa lần này, ngoài việc gặp Giang Trạch Dân, tổng bí thư, Lý Bằng, chủ tịch quốc hội, Hồ Cẩm Ðào, phó chủ tịch Nhà nước Trung Hoa, Lê Khả Phiêu còn ghé thăm Thành Ðô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, nơi Ðỗ Mười và Phạm Văn Ðồng năm 1990 đã qua tạ lỗi, để tỏ ra coi trọng tình hữu nghị Hoa Việt và biết ơn thiện ý của Trung Hoa đã chịu để cho Việt Nam được tái lập bang giao.
 
Vì thế cô về chính trị, không có kinh nghiệm lẫn kiến thức về kinh tế, và lên cầm quyền trong thời gian mà tệ nạn tham nhũng đang lan tràn trong mọi cấp của Ðảng viên, việc đầu tiên của Lê Khả Phiêu là mở hai đợt thanh lọc hàng ngũ Ðảng và bài trừ tham nhũng. Chỉ trong tháng 7, 1999, Ðảng trục xuất 200 Ðảng viên, thi hành kỷ luật 1550 Ðảng viên khác, hàng ngàn viên chức khác bị sa thải. Tháng 10 năm 1999, Tổng Giám Ðốc Thuế Quan Phan Văn Ðính bị mất chức vì quá nhiều cán bộ hải quan ăn hối lộ và buôn lậu. Người thay thế là Nguyễn Ðức Kiên, tỉnh ủy tỉnh Hải Dương. Năm 2001, có hai tỉnh ủy viên bị loại, nhưng Việt Nam vẫn được thế giới xếp vào một trong những nước tham nhũng nhất. Tuy không tham nhũng cá nhân, nhưng vì không có hậu thuẫn trong một Bộ Chính Trị luôn luôn có phe phái, Lê Khả Phiêu phải ưu tiên nâng đỡ những Ðảng viên cùng quê hương là tỉnh Thanh Hóa. Chẳng hạn khi Nguyễn Mạnh Cầm về hưu trong năm 2000, dù Vũ Khoan có khả năng và uy tín hơn, nhưng Lê Khả Phiêu lại áp lực để Nguyễn Dy Niên, người Thanh Hóa, lên thay. Vũ Khoan là người đầu óc cởi mở và chắc chắn sẽ không nhường nhịn Trung Hoa quá đáng như Lê Khả Phiêu. Ông ta đã từng viết trong một báo cáo về sử dụng ngân sách:
 “...nhiều thứ biết là chưa đúng, nhưng rất nhiều cán bộ lại biện lý lẽ rằng, Trung Quốc đã làm qua. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng cái gì đúng ở Trung quốc không chắc đã đúng ở Việt Nam. Thành quả của Trung quốc là lớn, nhưng không thể mù quáng học tập theo, nếu cứ như vậy chúng ta sẽ lại mắc bệnh giáo điều, căn bệnh của những năm 80...”
 

(Còn tiếp)