Thẻ Tín Dụng Print
Tác Giả: LS Trần Đình Bá   
Thứ Năm, 02 Tháng 10 Năm 2008 06:31

THẺ TÍN DỤNG

 

    Khi đến định cư tại Hoa Kỳ, một trong những phương tiện sinh sống mà người Việt Nam phải áp dụng để cuộc đời đỡ vất vả là thiết lập một hồ sơ thành tích trả nợ. Thật vậy, lập công trạng trả nợ là một việc cần thiết trong đời sống tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chuyện ngân hàng cho dân chúng vay mượn tiền để sắm xe, tậu nhà là một chuyện bình thường, xảy ra như cơm bữa. Và muốn vay được nợ, người dân cần phải lập một hồ sơ thành tích trả nợ đều đặn và đúng hẹn. Dùng thẻ tín dụng là một trong những phương cách phổ thông để thiết lập thành tích trả nợ.

Trong quá khứ, hiện tại, cũng như tương lai, có lẽ chúng ta đã, đang, và sẽ nhiều lần nhận được những thư mời mở các trương mục thẻ tín dụng. Thông thường, những thư mời này đều nói rằng bạn đã được chấp thuận (pre-approved) để dùng thẻ tín dụng này tới một mức tiền giới hạn nào đó, mà không cần phải điền đơn xin một cách chi tiết và chờ họ quyết định chấp thuận hay không. Các thư này cũng giục người nhận nên đồng ý ngay trước khi lời mời này hết hạn. Trước khi nhận mở các trương mục thẻ tín dụng, chúng ta nên tìm hiểu những điều kiện cũng như so sánh các phí tổn xem có hợp với khả năng và sở thích cá nhân hay không, kẻo lời mời mọc bây giờ thành tiếng đe dọa mai sau!

* CHỌN THẺ TÍN DỤNG.

Các lời mời mở trương mục thẻ tín dụng thường đầy hấp dẫn, nhưng chúng ta nên ghi nhớ thẻ tín dụng là một hình thức vay mượn có tính tiền lời cộng với các phí tổn khác - phí tổn cho sự tiện nghi vay mượn mà không phải bị tra hỏi.

Do đó, trước khi quyết định nhận thẻ tín dụng nào, chúng ta nên biết rõ các điều khoản và điều kiện liên quan đến việc sử dụng. Sau đây là các điều khoản tiêu biểu cần được so sánh và cân nhắc:

1. Mức lãi suất hàng năm:

Mức lãi suất hàng năm (Annual Percentage Rate, viết tắt là APR) thường được thông báo khi một người điền đơn xin thẻ tín dụng, khi mở trương mục và được in trên phiếu tính tiền hàng tháng. Mức lãi suất này có thể cố định (fixed rate) hoặc thay đổi (variable rate) tùy từng công ty ấn hành thẻ. Sự lên xuống trong lãi suất thường được căn cứ trên lãi suất tiền lời hoặc thay đổi trong tín hiệu kinh tế (thường được gọi là index). Tiền lời thị trường lên hay xuống sẽ ảnh hưởng đến tiền lời người dùng thẻ phải trả cho món tiền vay trong trương mục thẻ tín dụng. Nếu công ty ấn hành thẻ tín dụng áp dụng mức lãi suất thay đổi, họ phải cho người sử dụng biết mức lãi suất sẽ thay đổi và công thức tính dựa trên tín hiệu kinh tế. Họ cũng phải thông báo mức lãi suất thường thay đổi trong bao lâu và thay đổi bao nhiêu.

2. Thời kỳ ân hạn:

Thời kỳ ân hạn (grace period hay free period) là thời gian người dùng thẻ phải trả trọn số tiền đã vay xài nếu muốn tránh trả tiền lời. Ngày hết hạn được ghi trong tờ tường trình hàng tháng (monthly statement). Nếu người dùng thẻ có ý định trả hết số tiền vay mỗi tháng để khỏi phải trả tiền lời, người đó nên chọn các trương mục thẻ tín dụng có thời kỳ ân hạn này. Trong trường hợp trương mục không có thời gian này, công ty ấn hành thẻ sẽ bắt đầu tính tiền lời từ ngày mua món đồ bằng thẻ hoặc từ ngày dịch vụ được tính vào trương mục. Trong trường hợp trương mục có thời kỳ ân hạn, phiếu tính tiền hàng tháng phải được gởi đi ít nhất 14 ngày trước ngày hết hạn trả tiền, để người dùng thẻ có thì giờ trả trọn số tiền đã vay xài mà không phải trả tiền lời.

3. Lệ phí hàng năm:

Hầu hết các công ty ấn hành thẻ tín dụng thường tính một lệ phí hàng năm từ $25 đến $50 Mỹ kim cho thẻ thường, và nhiều hơn cho các thẻ với số tiền ấn định (credit line) cao hơn hay không giới hạn. Giá biểu lệ phí thay đổi tùy theo công ty. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, vì cạnh tranh và muốn có nhiều khách hàng trong thời kỳ kinh tế đang xuống dốc, nhiều công ty đã miễn lệ phí hàng năm này vĩnh viễn. Một số công ty khác buộc thẻ phải được dùng ít nhất vài lần trong năm để được miễn lệ phí này. Hiện nay, có một số công ty không những miễn lệ phí hàng năm mà còn cho tiền lại (dividend) dựa trên tổng sồ tiền người dân dùng thẻ tín dụng trả cho các dịch vụ thường nhật.

4. Các lệ phí linh tinh khác:

Các công ty có thể tính các lệ phí linh tinh khác khi thẻ được sử dụng, thí dụ dùng thẻ tín dụng để lấy tiền mặt (ATM), không trả tiền đúng hẹn, xài quá mức đã ấn định, v.v....

Vì các điều kiện và điều lệ của các công ty phát hành thẻ tín dụng khác nhau, chúng ta nên chọn loại thẻ nào hợp với ý muốn và cách sử dụng. Nếu dự tính trả hết tiền vào mỗi tháng, những yếu tố như lệ phí hàng năm, thời kỳ gia hạn và các lệ phí khác sẽ quan trọng hơn mức lãi suất hàng năm mà công ty dựa vào để tính tiền lời phải trả. Nếu dự định trả góp hàng tháng, mức lãi suất hàng năm lại trở nên quan trọng.

Ngoài các yếu tố kể trên, chúng ta cũng nên nghiên cứu các yếu tố khác như mức tiền giới hạn có đủ cho việc tiêu xài hay không, thẻ có được nhiều tiệm và nhiều nơi công nhận hay không, cũng như công ty có các dịch vụ giúp khách hàng giải đáp thắc mắc hoặc giải quyết vấn đề nhanh chóng và hữu hiệu hay không.

Sau cùng, ngoài các loại thẻ của các công ty tư, còn có các thẻ được bảo trợ bởi các hiệp hội chuyên nghiệp, các hội cựu sinh viên, hoặc kỹ nghệ du lịch. Các hội này sẽ ủng hộ một phần lợi tức cho các hội đoàn hoặc đại học mà họ bảo trợ, hay giảm tiền vé máy bay khi du lich.

* QUẢNG CÁO THẺ TÍN DỤNG.

Luật liên bang cấm các công ty phát hành thẻ tín dụng gửi thẻ đến người dân khi họ không yêu cầu. Tuy nhiên, công ty có thể gửi thẻ mới để thay thế thẻ cũ gần hết hạn hoặc đã mất mà không cần phải có lời yêu cầu của chủ nhân. Mặc dù không được tự động gửi thẻ khi không có lời yêu cầu, các công ty có thể gửi đơn hoặc quảng cáo dụ người dân mở trương mục thẻ tín dụng. Họ cũng có thể gọi điện thoại mời mọc và được phép gửi thẻ tín dụng về nhà nếu cá nhân đó bằng lòng mở trương mục với họ.

* LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI DÙNG THẺ TÍN DỤNG.

1. Tiền trả nợ được tính sổ ngay: Khi nhận được tiền trả nợ cho trương mục thẻ tín dụng, công ty ấn hành thẻ phải khấu trừ món nợ ngay trong ngày nhận được, trừ khi việc trả nợ không đúng với các điều kiện đã được đề ra. Do đó, để tránh việc công ty nhận tiền trễ và bắt đầu tính tiền lời, người sử dụng thẻ nên theo các chỉ thị của công ty và gởi tiền trả về đúng địa chỉ mà họ đã ghi.

2. Tiền dư được trả lại hoặc giữ trong trương mục: Nếu một người trả món đồ đã mua bằng thẻ tín dụng lại cho tiệm hoặc trả nợ cho công ty ấn hành thẻ nhiều hơn món nợ, người đó được quyền lựa chọn, hoặc giữ lại trong trương mục và trừ vào tháng tới, hoặc viết thư yêu cầu công ty trả lại số tiền dư nếu trên $1 Mỹ kim. Công ty phải hoàn trả lại số tiền dư trong vòng 7 ngày làm việc, kể từ khi nhận được lời yêu cầu.

3. Sai lầm trong phiếu tính tiền: Luật liên bang ghi rõ các thủ tục mà công ty ấn hành thẻ tín dụng phải tuân giữ trong việc điều chỉnh những sai lầm sổ sách trong phiếu tính tiền. Các công ty phải cung cấp một bản liệt kê các thủ tục này cho người mới mở trương mục lần đầu tiên, và sau đó mỗi năm ít nhất một lần. Hiện tại, hầu hết các công ty đều tóm lược quyền lợi của người sử dụng thẻ và in vào mặt sau các phiếu tính tiền hàng tháng.

Khi nhận thấy có sự sai lầm trong phiếu tính tiền, người sử dụng nên viết thư thông báo đến công ty phát hành càng sớm càng tốt. Thông thường, thời hạn trễ nhất là trong vòng 60 ngày, kể từ ngày phiếu tính tiền đầu tiên có sự sai lầm được gởi đi. Vì thế, nên giữ lại tất cả các hóa đơn trả tiền và so sánh với phiếu tính tiền ngay sau khi nhận được.

Trong thư thông báo sự sai lầm, nên cho biết tên, số trương mục thẻ tín dụng, số nợ người sử dụng thẻ nghi ngờ không đúng, và lý do tại sao. Sau khi nhận được thư thông báo có sự sai lầm, công ty ấn hành thẻ sẽ điều tra và điều chỉnh lại nếu có sai lầm, hoặc nếu không đồng ý, công ty phải giải thích. Mọi việc kể trên phải xảy ra trong thời hạn 2 kỳ tính tiền nhưng không được quá 90 ngày kể từ ngày công ty nhận được thư thông báo có sự sai lầm trong phiếu tính tiền. Trong thời gian công ty đang điều tra nội vụ, người sử dụng thẻ không phải trả món tiền nợ đang tranh cãi. Muốn biết thêm chi tiết trong vấn đề này, xin viết thư về: Credit Billing Errors, Public Reference, Federal Trade Commission, Washington, D.C. 20580.

    4. Việc sử dụng bất chính và mất thẻ: Theo luật tiểu bang, nếu thẻ tín dụng được xài một cách bất chính, nghĩa là không có phép của chủ nhân, chủ nhân phải chịu trách nhiệm trả tối đa là $50 Mỹ kim cho mỗi thẻ. Trách nhiệm này bao gồm trường hợp thẻ tín dụng bị trộm hoặc cướp và chủ nhân báo cáo việc mất thẻ sau khi kẻ gian đã sử dụng thẻ, ngay cả trường hợp kẻ trộm dùng thẻ để lấy tiền mặt tại máy lấy tiền tự động ở các ngân hàng. Nếu chủ nhân báo cáo việc mất thẻ trước khi thẻ được sử dụng, công ty không được quyền bắt chủ nhân phải trả các khoản tiền mà kẻ gian đã xài bằng thẻ. Tuy nhiên, chủ nhân nên kiểm chứng các trách nhiệm và quyền lợi này với công ty trước khi quyết định xin và sử dụng thẻ của công ty.

Do đó, để giảm thiểu trách nhiệm, nên báo cáo ngay việc mất thẻ. Các công ty ấn hành thẻ tín dụng đều có in trong tờ tường trình hoặc phiếu tính tiền hàng tháng các số điện thoại miễn phí, để chủ nhân có thể báo cáo việc thẻ bị thất lạc hoặc trộm cướp bất cứ lúc nào.

Trong trường hợp thẻ bị thất lạc, sau khi gọi điện thoại báo cáo với công ty, nên viết một lá thư xác nhận việc thông báo này. Trong thư nên ghi rõ số trương mục thẻ tín dụng bị mất, ngày giờ khám phá thẻ bị mất, và ngày giờ gọi điện thoại báo cáo sự việc với công ty. Không nên gởi thư đến địa chỉ thường dùng để trả tiền hàng tháng, mà nên gởi thư đến văn phòng chuyên phụ trách điều chỉnh phiếu tính tiền.

5. Tranh cãi trong món hàng đã mua: Nếu món hàng đã mua bằng thẻ tín dụng bị trục trặc không sử dụng được, hay không vừa ý, hoặc có bất cứ trở ngại gì, và người mua đã tỏ thiện chí cố gắng giải quyết vấn đề với người bán nhưng không có kết quả, người mua được quyền khất trả cho công ty ấn hành thẻ món nợ liên quan đến việc mua sắm món đồ này. Món nợ khất có thể bao gồm cả tiền lời và các lệ phí được tính dựa trên món hàng. Tuy nhiên, chủ nhân thẻ chỉ được khất trả món nợ nếu hội đủ các điều kiện sau đây:

a/ Thẻ tín dụng không phải phát hành do tiệm hoặc công ty bán món hàng bị tranh cãi;

b/ Món hàng mua trên số tiền công ty đã ấn định, bình thường là $50 Mỹ kim; và

c/ Việc mua bán xảy ra trong tiểu bang cư ngụ hoặc trong vòng 100 dặm của địa chỉ gởi phiếu tính tiền.

Nếu không hội đủ các điều kiện trên đây, chủ nhân thẻ phải trả món tiền nợ cho công ty. Riêng đối với người bán món hàng, chủ nhân có thể đệ đơn kiện nhờ tòa án giải quyết vấn đề tranh cãi. Tại quận hạt Santa Clara, tiểu bang California, Hoa Kỳ, nếu món hàng tranh cãi không trị giá quá $7.500 Mỹ kim, đơn kiện có thể nạp tại Tòa Vi Thẩm (Small Claims Court). Tòa Vi Thẩm chuyên xử những vụ tranh chấp mà thiệt hại không quá bảy ngàn năm trăm Mỹ kim ($7.500) và chính nguyên đơn và bị đơn trình bày sự việc thẳng với ông tòa, chứ không phải là luật sư. Do đó, lệ phí và thủ tục rất nhẹ và đơn giản.

* THẺ GỬI TIỀN, LẤY TIỀN TỰ ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG.

Khi một người đến mở trương mục, hầu hết các ngân hàng hiện nay đều cấp cho cá nhân đó một thẻ rút tiền hoặc gửi tiền tự động tại các máy mà không cần phải vào bên trong tiếp xúc với nhân viên. Thẻ này có kích thước và hình thể như thẻ tín dụng và thường được gọi là thẻ ATM, viết tắt của chữ Automated Teller Machines. Hiện tại, việc sử dụng thẻ ATM không còn bị giới hạn trong phạm vi gửi tiền hoặc rút tiền tại các ngân hàng nữa. Các siêu thị, cây xăng và nhiều cửa tiệm đã thiết lập hệ thống để người dân có thể trả tiền bằng thẻ ATM, thay vì ký ngân phiếu hoặc trả tiền mặt. Ngoài ra, tại những nơi chốn công cộng như phi trường, khách sạn, nhà hàng, siêu thị, v.v…, người dân cũng có thể dùng thẻ ATM để rút tiền mặt và trả một lệ phí tượng trưng.

     Có nhiều điểm khác biệt giữa thẻ ATM và thẻ tín dụng. Điểm khác biệt lớn nhất là thẻ ATM dùng thẳng tiền trong trương mục ngân hàng của chính người sử dụng thẻ, trong khi thẻ tín dụng vay tiền của công ty ấn hành thẻ tới mức đã được ấn định trước, và rồi sau đó người dùng thẻ mới trả góp hàng tháng. Một điểm khác biệt nữa là trong khi thẻ tín dụng được hầu hết mọi cửa tiệm chấp nhận, thẻ ATM bị giới hạn và chỉ được sử dụng tại ngân hàng cấp phát hay những nơi có hệ thống đặc biệt.

* KHI MẤT THẺ ATM.

Khi thẻ ATM bị mất và được báo cáo trước khi thẻ bị kẻ gian sử dụng, ngân hàng không có quyền buộc nạn nhân phải trả những khoản tiền bị rút khỏi trương mục hoặc bị xài một cách bất chính. Nếu ngân hàng được báo cáo sau khi thẻ ATM được sử dụng, số tiền nạn nhân phải chịu trách nhiệm hoàn trả còn tùy theo việc báo cáo sớm hay muộn.

- Nếu báo cáo mất thẻ trong vòng 2 ngày làm việc sau khi khám phá việc thất lạc hoặc mất, nạn nhân chỉ phải chịu trách nhiệm tối đa là $50 Mỹ kim cho các dịch vụ bất chính.

     - Nếu báo cáo mất thẻ với ngân hàng sau 2 ngày làm việc, số tiền nạn nhân phải chịu trách nhiệm có thể lên tới tối đa là $500 Mỹ kim. Tuy nhiên, nên đọc kỹ giấy tờ hoặc kiểm chứng với ngân hàng về số tiền trách nhiệm bồi thường này khi được ngân hàng cấp thẻ ATM.

- Nếu trong vòng 60 ngày, sau khi ngân hàng gửi bản tường trình hàng tháng mà nạn nhân vẫn chưa báo cáo các việc chuyển hoặc rút tiền bất chính, trách nhiệm trả các món nợ trở thành vô hạn, nghĩa là người bị mất thẻ phải trả tất cả số tiền mà kẻ gian đã tiêu xài.

Do đó, nên duyệt xét các bản tường trình mà ngân hàng gửi về hàng tháng. Nếu có việc xài tiền hoặc chuyển tiền nào bất chính, phải báo cáo ngay với ngân hàng để giới hạn trách nhiệm bồi thường.

So sánh với thẻ tín dụng trong trường hợp mất thẻ, người bị mất thẻ tín dụng hoặc thẻ ATM không phải chịu trách nhiệm nếu báo cáo với công ty ấn hành thẻ trước khi kẻ gian có cơ hội trổ tài. Nếu khai báo sau khi thẻ đã được sử dụng bất chính, người có thẻ tín dụng chỉ chịu trách nhiệm tối đa là $50 Mỹ kim, trong khi người có thẻ ATM chịu trách nhiệm tùy vào lúc việc đánh mất được khai báo như chúng tôi vừa trình bày. Tuy nhiên, cách an toàn nhất vẫn là báo cáo với công ty hoặc ngân hàng ngay lập tức khi khám phá thẻ bị thất lạc hay mất cắp.

* BẢO VỆ CÁC THẺ TÍN DỤNG.

Có nhiều cách để bảo vệ các thẻ tín dụng nếu lỡ bị mất, mà kẻ gian cũng không xài được. Đối với thẻ ATM, quan trọng nhất là giữ kín và thuộc lòng số mật mã cá nhân, tức là Personal Identification Number, viết tắt là PIN. Thống kê cho biết là trong các vụ thẻ bị mất và sử dụng bất chính, một phần ba là vì nạn nhân viết số mật mã vào thẻ hoặc viết vào mảnh giấy và giữ gần thẻ.

Sau đây là các đề nghị giúp quý độc giả bảo vệ các thẻ bọc nhựa:

1. Đối với thẻ tín dụng:

- Cẩn thận khi tiết lộ số trương mục thẻ tín dụng qua điện thoại hay trên internet. Chỉ nên tiết lộ nếu biết rõ công ty đó uy tín và đàng hoàng.

- Không bao giờ viết số trương mục ngoài bìa thư.

- Vẽ một đường thẳng trong khoảng trống trên số tiền tổng cộng trong các chi phiếu tính tiền để tránh trường hợp số tiền bị thay đổi sau đó.

- Không nên ký vào chi phiếu tính tiền còn để trống.

- Xé bỏ tờ giấy carbon và giữ lại bản sao để kiểm chứng với bản tường trình hàng tháng. Hiện nay, với kỹ thuật khoa học tân tiến, hầu hết các chi phiếu không còn dùng giấy carbon để in bản sao nữa.

- Duyệt xem bản tường trình hàng tháng và kiểm chứng với các hóa đơn ngay khi nhận được. Nếu có gì sai hoặc khác biệt, báo cáo ngay với công ty ấn hành thẻ tại địa chỉ và số điện thoại đặc biệt ghi trong tờ tường trình. Như chúng tôi đã trình bày, công ty phải điều tra nếu người dân báo cáo sự sai lầm trong vòng 60 ngày sau ngày gửi bản tường trình.

- Giữ và bảo mật các giấy tờ có số trương mục thẻ, điện thoại báo cáo với công ty trong trường hợp mất thẻ.

- Khi du lịch, chỉ nên mang theo những thẻ thường sử dụng.

2. Đối với thẻ ATM:

- Chọn số mật mã cá nhân (PIN) khác với các số thường có trên các giấy tờ trong ví như số nhà, ngày sanh, số điện thoại, số an sinh xã hội.

- Học thuộc lòng số mật mã cá nhân.

- Không nên viết số mật mã cá nhân trên thẻ ATM hoặc viết trên các giấy tờ cá nhân trong ví hay bóp.

- Không bao giờ viết số mật mã ngoài bìa thư hoặc hóa đơn bỏ tiền vào ngân hàng.

- So sánh các hóa đơn với bản tường trình hàng tháng ngay khi nhận được.

* MUA DỊCH VỤ ĐĂNG KÝ THẺ.

Có rất nhiều công ty cung cấp dịch vụ đăng ký và báo cáo với tất cả các công ty mà một cá nhân hiện đang dùng thẻ tín dụng và thẻ ATM trong trường hợp bị mất cắp. Nếu có mua dịch vụ này, thay vì phải khai báo với mỗi công ty ấn hành thẻ, nạn nhân chỉ cần điện thoại một lần báo cáo các thẻ bị mất và công ty cung cấp dịch vụ này sẽ thông báo với tất cả. Ngoài ra, công ty này cũng sẽ yêu cầu ấn hành thẻ mới cho nạn nhân.

Nếu quyết định mua dịch vụ này, nên đọc kỹ giấy khế ước để biết rõ bổn phận và trách nhiệm của mỗi bên, đặc biệt trong trường hợp thẻ bị mất cắp. Thí dụ, công ty này có chịu trách nhiệm bồi thường nếu họ không báo cáo với tất cả các công ty, mặc dù đã được nạn nhân khai báo. Nếu không, nạn nhân sẽ phải chịu trách nhiệm vì chính nạn nhân có bổn phận báo cáo, không cần biết họ đã thuê người làm công tác đó hay không.

Luật Sư TRẦN ĐÌNH BÁ