Nhà cách mạng: Tôn Dật Tiên Print
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm   
Thứ Bảy, 13 Tháng 3 Năm 2010 07:54

 Ông được người Trung Hoa gọi yêu mến là "Quốc phụ Trung Hoa"

Tôn Dật Tiên (Sun Yat-sen)
    孫文 / 孫中山 / 孫逸仙

Nhiệm kỳ: 1 tháng 1 năm 1912 – 1 tháng 4 năm 1912

Tiền nhiệm: Phổ Nghi (hoàng đế Trung Hoa)

Kế nhiệm: Viên Thế Khải (Tổng thống thứ nhất)

Nhiệm kỳ: 10 tháng 10 năm 1919 – 2 tháng 3 năm 1925

Tiền nhiệm: (không)
Kế nhiệm: (không)

Đảng: Bản mẫu:KMT (KMT)

Sinh: 12 tháng 11, 1866- Trung Sơn, Quảng Đông, Trung Quốc

Mất: 12 tháng 3 năm 1925 (58 tuổi)- Bắc Kinh, Trung Quốc

Học trường: Cao đẳng Đông y Hồng Kông dành cho người Trung Quốc

Nghề nghiệp: Thầy thuốc, Nhà chính trị, Nhà cách mạng, Nhà văn

Tôn giáo: Kitô giáo

Phối ngẫu: Lư Mộ Trinh (1885-1915)
                  Tống Khánh Linh (1915-1925)

Tôn Dật Tiên (chữ Hán: 孫逸仙), còn gọi là Tôn Văn hay Tôn Trung Sơn (孫中山), (12 tháng 11 năm 1866 – 12 tháng 3 năm 1925) là nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc, người lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại Mãn Thanh và khai sinh nước Trung Hoa dân quốc. Ông được người Trung Hoa gọi yêu mến là "Quốc phụ Trung Hoa".

Cuộc đời

Ông sinh ở tỉnh Quảng Đông trong một gia đình nông dân khá giả. Năm 13 tuổi, ông đến học ở Honolulu (Hawaii) vì có người anh buôn bán ở đây, ở đây ông học các trường tiểu học và trung học nên chịu ảnh hưởng rất lớn của phương Tây. Năm 1883, ông trở về nước, theo học trường Đại học Y khoa Hương Cảng và trở thành bác sĩ. Tuy nhiên sau đó thấy tình cảnh đất nước bị các đế quốc xâu xé, ông bỏ nghề y theo con đường chính trị.

Năm 1894, Tôn Trung Sơn sang Hawaii tập hợp Hoa kiều cùng chí hướng thành lập Hưng Trung hội với tôn chỉ đánh đổ phong kiến Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa. Ông bị người anh đưa về Trung Quốc vì sợ ông theo Công giáo nhưng ông đã trở lại Hawaii ít nhất hai lần vào 1900 và 1901.[1] Năm 1905, Tôn Trung Sơn hợp nhất Hưng Trung hội với một số tổ chức trong nước lập thành Trung Quốc Đồng minh hội do ông làm Tổng lý. Trên tờ Dân báo, cơ quan ngôn luận của hội, ông đã công bố chủ nghĩa Tam dân: "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Từ 1905 đến năm 1911 Trung Quốc Đồng minh hội tổ chức nhiều cuộc binh biến ở các tỉnh miển Nam nhưng không thành công. Ngày 10 tháng 10 năm 1911, Đồng minh hội vận động được binh sĩ ở Vũ Xương (Hồ Bắc) nổi dậy khởi nghĩa và giành được thắng lợi mở đầu cho Cách mạng Tân Hợi. Phong trào này nhanh chóng bùng nổ ở nhiều tỉnh khác. Ngày 24 tháng 12 năm 1911, Tôn Trung sơn về nước, được đại hội đại biểu các tỉnh họp ở Nam Kinh đề cử làm tổng thống lâm thời.

 

        Tôn Văn (ngồi bên phải) gặp các viên
              chức Pháp tại Hà Nội, 1902
   


Ngày 1 tháng 1 năm 1912, ông tuyên thệ nhậm chức Tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại Nam Kinh. Nhưng một tháng sau, ông nhường chức này cho Viên Thế Khải với điều kiện Viên Thế Khải bắt vua nhà Thanh thoái vị để thành lập chế độ cộng hòa nhưng Viên Thế Khải đã phản bội, đàn áp lực lượng cách mạng.

Ông là một nhà triết học, ông lấy triết học để chỉ đạo cách mạng. Sau khi từ chức ông nghiên cứu triết học và có sáng tác tác phẩm Học thuyết Tôn Văn với trọng tâm là "biết thì khó, làm thì dễ". Vợ thứ hai của ông là Tống Khánh Linh, sau này cũng làm Chủ tịch danh dự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Con trai ông (với người vợ đầu Lô Mộ Trinh hay Lư Mộ Trinh (盧慕貞) là Tôn Khoa (孫科; Bính âm: Sūn Kē) sau này làm Thủ tướng Trung Hoa Dân Quốc.
Ngoài hai vợ trên, theo Trung Quốc sử thoại, ông còn quan hệ gắn bó với "bà Nam Dương" Trần Túy Phần, sau đổi tên là Trần Tứ.[2]
Ông đã nêu ra chủ thuyết "Tam dân" (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc). Ông được dân chúng Trung Quốc gọi là "Quốc phụ" (người cha của đất nước).
Ông được thờ trong đạo Cao Đài ở Việt Nam.

Tên

• Khai sinh: Tôn Đức Minh (孫德明)
• Thời niên thiếu: Tôn Đế Tượng (孫帝象)
• Đi học: Tôn Văn (孫文)
• Lịch sự: Tôn Đại Chi (孫載之)
• Hiệu: Nhật Tân (日新); Dật Tiên (逸仙)
• Bí danh: Trung Sơn (中山)
• Bí danh ở Nhật Bản: Nakayama Sho (中山樵)
• Danh xưng: Quốc phụ (國父)