main billboard

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận diện chân dung nhà văn. Văn Nghệ: California 2000,177).

Chẳng hiểu em nói cái gì
nhìn môi một cụm xuân thì cũng thương
em xinh như đóa hướng dương
mọc hoang theo lối về buôn bản nghèo

'H ' Na Cô Gái Tây Nguyên'

nguoidantoc 2Tác giả những câu thơ vừa dẫn, thi sĩ Phan Ni Tấn, là một người vô cùng may mắn. Vô số kẻ đã đến miền sơn cước nhưng có lẽ chỉ riêng mình thằng chả là có mối duyên tình với nàng sơn nữ (”xinh như một đóa hướng dương”) dù rằng hai bên  - hoàn toàn và tuyệt đối - bất đồng ngôn ngữ.

Tôi biết một nhân vật khác, cũng lặn lội lên đến cao nguyên, và đến nơi rất sớm nhưng không có cái diễm phúc tương tự. Ðó là nhạc sĩ Văn Trí, người viết bản Hoài thu - vào năm 1951.

Ðà Lạt (ở thời điểm này) theo như lời mô tả của tác giả là một nơi “núi rừng thâm xuyên,” với những “bầy nai ngơ ngác, lá vàng rơi đầy miên man,” và… chấm hết! Tuyệt nhiên, không hề thấy bóng dáng bất cứ một cô sơn nữ nào (hết trơn hết trọi) kể cả những cô mà nhan sắc chỉ ở mức trung bình - hoặc dưới trung bình chút xíu - cũng không.

Tôi ra đời sau tác phẩm Hoài thu, và dưới một ngôi sao (vô cùng) xấu. Dù sinh trưởng ở miền sơn cước, tôi chưa bao giờ có hân hạnh được trao (và nhận) những lời yêu thương đến cô gái H’ Na - như Phan Ni Tấn. Tương tư suông, nghĩa là yêu đơn phương, cũng miễn có luôn.

Tôi cũng không được cái vinh dự nhìn thấy nét man dại, trinh nguyên của một vùng đất mới như ông Văn Trí. Sự hoang dã của cao nguyên Lâm Viên, đối với những kẻ sinh sau đẻ muộn như tôi (có chăng) chỉ là dư âm - qua những câu chuyện kể, đại khái như:

“Hồi đó, ở Ðà Lạt, cọp thiếu mẹ gì. Nhiều bữa, con nít đang lơn tơn đến trường bỗng thấy mấy ông cọp bự nằm chơi phơi nắng. Vậy là đám lật đật nín thở, nhè nhẹ quay lưng, và chầm chậm… đi về.”

Khoẻ!

Sự gần gũi (giữa cọp và người) như thế - tiếc thay - không kéo dài luôn, và cũng không kéo dài lâu. Trong những tháng ngày thơ ấu, mỗi sáng đi học, tôi đều cầu nguyện và van xin (Phật, Chúa,Thánh, Thần…) để được nhìn thấy vài ông cọp bự - cũng đang ngồi chơi phơi nắng, giữa đường - như “những ngày xưa thân ái” đó.

Dù tôi hết sức chí tình, sự khẩn cầu này - than ơi - chưa bao giờ ứng nghiệm. Lòng tin của tôi vào các đấng thiêng liêng giảm sút (không ngừng) kể từ thưở ấy.

Khi tôi được “bế” lên Ðà Lạt, vào giữa thập niên 1950, thành phố này đã bị đô thị hóa.Voi, cọp, heo, beo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, chồn… không còn chung sống với người. Người Thượng (nói chung) và những cô sơn nữ (nói riêng) cũng không mấy khi xuất hiện trên đường phố. Họ ở cách xa, nơi những bản làng heo hút.

Văn hóa miền núi, tất nhiên, có nhiều nét dị biệt với miền xuôi; do đó, khi giao tiếp (đôi lúc) giữa người Thượng và người Kinh đã có những hiểu lầm - vô cùng đáng tiếc!

Thuở ấu thơ, tôi đã có lần chứng kiến cảnh một chàng thanh niên từ miền sơn cước xuống chợ miền xuôi, và bị “tiếng sét ái tình” với một cô gái bán hàng. Chàng đứng ngẩn ngơ, chân không thể bước. Trước tình huống đó, có người buột miệng nói đùa:

- Người Kinh không có “bắt chồng” như người Thượng đâu. Muốn “bắt vợ” thì tuần trăng sau phải mang hai con trâu tới đây mới được.

Chàng trai miền núi mừng rỡ gật đầu, hăm hở quay về. Không hiểu phải qua bao nhiêu đường đất, và gặp bao nhiêu khó khăn ở thôn bản của mình nhưng đúng hẹn chàng trở lại. Nhác trông thấy người xưa - dắt theo hai con trâu, như giao ước - cô gái vội vàng bỏ trốn!

Chờ hoài không thấy cố nhân, chàng thẫn thờ (mãi) rồi lặng lẽ dắt trâu đi. Một chuyện tình buồn thảm thiết như thế mà khi kể xong vẫn có người cười. Nói thiệt: sao tôi cười… không nổi! Cách đùa cợt đó, ngay từ khi còn bé, tôi đã cảm thấy có cái gì rất là không ổn. Sau này, lúc đã cắp sách đến trường, cũng đã có lần tôi suýt khóc khi đọc một câu thơ trào phúng :
Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe!

Tú Xương sinh năm 1870 và mất năm 1907. Câu thơ (thượng dẫn) có thể được viết từ cuối thế kỷ XIX. Vào thời điểm này, khi mà mọi phương tiện truyền thông và giao thông đều vô cùng giới hạn nên cách nhìn lệch lạc của thi sĩ về một người đồng bào miền núi - tôi cố nghĩ - có thể thông cảm được.

Đến đầu thế kỷ XXI, theo bài viết về “Mọi” của Duy Ngọc (đọc được trên talawas, vào hôm 13/07/2009) thì tình cảm của người Việt đối với “những đồng bào thuộc sắc tộc ít người’ (hoàn toàn) không có gì thay đổi: “Thử lên Tây Nguyên sống vài tháng sẽ thấy cái nhìn kỳ thị như thế trong rất nhiều người Kinh đối với các cộng đồng người dân tộc thiểu số vẫn còn nặng nề như thế nào.”

Khỏi phải “thử lên Tây Nguyên sống vài tháng” làm chi, cho má nó khi. Cứ ngồi nhà google vài chữ - “thằng mọi, thằng mán, thằng mường” - là sẽ tìm được vô số định kiến vô cùng đáng tiếc. Tự thâm tâm, có lẽ, những người thuộc dân tộc Kinh ở Việt Nam chưa bao giờ coi đồng bào Thượng là đồng bào (thiệt).

Bà Tòng Thị Phóng (khi còn là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương) cũng đãlớn tiếng kêu gọi:
“Quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây; tăng cường cơ sở khám bệnh, cán bộ y tế cho các xã, thôn ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian; từng bước ngăn chận tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số.”

Bà Phóng (cũng) nói cho nó đã miệng vậy thôi chớ sáu năm sau, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì “các sắc dân thiểu số ở Việt Nam có tỉ lệ người nghèo cao hơn 5 lần tỉ lệ của người Kinh.”

Và người Kinh, ở miền xuôi, không ít kẻ đang sống (và chết) dở. Nói chi đến những sắc dân ở những miền núi xa xôi. Cạch đây chưa lâu báo Tiền Phong (buồn bã) loan tin: “THPT Đinh Tiên Hoàng nằm sâu trong hẻm núi xã Sơn Dung, huyện Sơn Tây, nơi phần lớn là người dân tộc K’dong sinh sống, cách thành phố Quảng Ngãi hơn 100 km, không có học sinh nào đậu tốt nghiệp trong kỳ thi vừa qua.”

Nguyên do, theo lời của thầy hiêu trưởng Nguyễn Hải Thịnh: “Đây là hệ quả tất yếu của một hệ thống đào tạo có chất lượng thấp.” Nói cách khác là “gạo nào cơm nấy,” thế thôi.

Còn ông Phạm Tấn Hoàng, chủ tịch UBND huyện, cho biết thêm: “Sơn Tây có 6/6 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, tỉ lệ nghèo đói còn 78% trên tổng số 3.706 hộ. Do địa bàn cách trở giao thông, điều kiện kinh tế học sinh khó khăn, nơi ăn ở cho học sinh chưa có nên các em không an tâm học tập.”

An tâm gì nổi, hả Trời! Đời sống có những ưu tiên sắp sẵn: ăn - mặc, ăn - học. Cơm áo lo chưa xong, nói chi đến học - mấy cha?

Theo tường trình của Ủy ban Dân tộc thì ”người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu chỉ  còn lại… vài trăm!” Nhà văn Nguyên Ngọc, trong bài “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” (đọc được ở diendan.org, ngày 20 tháng 8 năm 2008) cho biết thêm: “Người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80…”

Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc thiểu số tự ngàn xưa. Với cuộc sống đơn giản và hài hoà với thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước.  Cũng chính họ là những tuyến đầu, và là vòng đai an ninh cho tố quốc. Cớ sao toàn Đảng (cũng như toàn dân) tỏ thái độ khinh thị, và cương quyết tìm mọi cách đẩy họ đến bước đường cùng như thế?

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận diện chân dung nhà văn. Văn Nghệ: California 2000,177).

“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (xem chừng) đang sắp sửa muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng tệ hại hơn!